Phim LÊ HẤP ĐƯỜNG PHÈN - 2020 - Trung Quốc:. LÊ HẤP ĐƯỜNG PHÈN - Skate Into Love là một bộ phim thanh xuân thần tượng của Trung Quốc lên sóng năm 2020, được cải biên từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn nổi tiếng Tửu Tiểu Thất, với sự tham gia của các diễn viên Ngô Thiến, Trương Tân Thành, Chu Lịch Kiệt
VTV.vn - Như thường lệ, đề thi Đại học môn Ngữ văn của Trung Quốc là đề tài được quan tâm bởi sự thú vị, đa dạng và có khi là khó hiểu. Kỳ thi đại học của Trung Quốc - Cao khảo luôn là chủ đề được nhiều người quan tâm vào thời điểm này hàng năm. Năm nay
Đại hội toàn quốc Đảng cộng sản lần thứ 20 có ý nghĩa đặc biệt với chu kỳ phát triển của Trung Quốc và cá nhân ông Tập Cận Bình.
TPO - Theo tờ Sohu, nhiều cầu thủ Brazil không được chào đón ở quê nhà vì mang quốc tịch Trung Quốc. Vì vậy, họ buộc phải tìm đường trở lại Trung Quốc để duy trì cơ hội thi đấu. Elkeson (9) đang tìm cách trở lại Trung Quốc tìm việc. Thất bại trước Việt Nam ở vòng
Trước đó, bằng các biện pháp nghiệp vụ, Công an TP Hải Phòng phát hiện một số đối tượng ở Hải Phòng móc nối với các đối tượng ở các tỉnh Điện Biên, Nghệ An, Hà Tĩnh lập đường dây mua bán, vận chuyển trái phép ma túy với số lượng lớn từ nước ngoài về
cash. Văn học Trung Quốc có bề dày lịch sử đồ sộ, kéo dài lên đến hàng nghìn năm. Trong khoảng thời gian đó, rất nhiều tác phẩm và bài học quý báu đã ra đời. Để hiểu thêm về nền văn học này, mời bạn đọc tham khảo TOP 12 Tác phẩm văn học Trung Quốc hay nhất dưới đây. Hãy cùng kéo xuống để tiếp tục nhé! Lưu ý Dưới mỗi cuốn sách chúng mình có để link đến những nhà cung cấp sách uy tín hiện nay. Nếu có nhu cầu, bạn đọc có thể mua để ủng hộ bản quyền tác giả nhé! Thủy Hử – Thi Nại Am Thủy Hử là một trong Tứ đại danh tác của nền văn học cổ điển Trung Quốc. Qua giọng văn sống động của tác phẩm văn học Trung Quốc này, một trăm linh tám anh hùng Lương Sơn mỗi người một vẻ, một xuất thân, một tính cách, một cuộc đời hiện lên qua từng trang sách. Trong quá trình tụ nghĩa Lương Sơn, họ gặp quan tham thì chống, gặp ác bá thì trừng, đặt chữ “nghĩa” làm phương châm hành động. Lối hành động không câu nệ và tính cách hào sảng ấy nơi các nhân vật đã quyện xoắn những mẩu chuyện rời thành một thế giới võ lâm thu nhỏ, tạo cảm giác sảng khoái trong từng câu chữ. “Văn chương Thủy Hử không “dệt gấm thêu hoa” như Tây Sương Ký, không “nhả ngọc phun châu” như Hồng Lâu Mộng mà là “nhạc trỗi chuông ngân”, hùng hồn, dồn dập. Văn chương Thủy Hử thì vẫn gần gũi với truyện kể dân gian. Tác phẩm Thủy Hử giữ được tính sống động của nhân vật trong ngôn ngữ gần gũi với đời sống hằng ngày, trong lối hành văn ít trang sức tô điểm.” – Giáo sư Lương Duy Thứ. Tây Du Ký – Ngô Thừa Ân Tây du ký được xem là tác phẩm văn học đạt đến độ mẫu mực, đứng trong 4 tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa, gọi là Tứ đại danh tác. Cuốn sách văn học Trung Quốc này kể về hành trình của Trần Huyền Trang đến Tây Trúc Ấn Độ để thỉnh kinh. Theo ông là ba đệ tử Tôn Ngộ Không một tên khỉ do đá sinh ra; Trư Ngộ Năng hay còn gọi là Trư Bát Giới; Sa Ngộ Tĩnh hay còn gọi là Sa Tăng, cùng đồng hành đi phò tá thỉnh kinh. Bên cạnh đó, con ngựa mà Trần Huyền Trang cưỡi cũng là một nhân vật do hoàng tử của Long Vương Bạch Long Mã hóa thành. Những chương đầu thuật lại những kỳ công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông , xưng vương ở Hoa Quả Sơn, tầm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong núi Ngũ Hành 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh sau khi hoàng đế thoát chết. Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu, trong đó nhiều yêu quái là đồ đệ của các vị Tiên, Phật. Một số yêu tinh muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành đàn bà đẹp. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa. Tác phẩm Tây Du Ký đúc kết lên một triết lí nhân sinh, rằng con người có thể chinh phục mọi thứ nếu có sự đoàn kết, ý chí và sức mạnh. Hàn Phi Tử – Hàn Phi Hàn Phi sống cuối đời Chiến Quốc, trong giai đoạn Tần Thủy Hoàng đang thống nhất Trung Hoa. Ông thuộc dòng dõi quý tộc nước Hàn được gọi là “công tử”, thích cái học “hình danh”. Hàn Phi có tật nói ngọng, không thể biện luận nhưng giỏi viết sách. Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi là thuyết Pháp trị. Không phải ông là người đầu tiên nêu lên học thuyết này mà trước đó Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại đã khởi xướng học thuyết này. Tư tưởng của Hàn Phi Tử khác với tư tưởng của Nho giáo vốn cho rằng để quản lý xã hội thì dùng Nhân trị và Đức trị, ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng pháp luật “Pháp luật không hùa theo người sang… Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu”. Ngọc trong lời tựa của tác phẩm Hàn Phi Tử đã từng nói Hàn Phi là con người có kiến thức uyên bác tiếp thu từ Nho gia, lập luận rất chặt chẽ và sắc sảo, sử dụng rất nhiều dẫn chứng trong đó các dẫn chứng là chuyện đương thời chứ không phải chuyện xa xôi, nên sức thuyết phục rất mạnh. Hàn Phi cũng vận dụng linh hoạt tư tưởng của Đạo Đức kinh của Lão Tử để minh họa cho tư tưởng Pháp gia, giúp một tư tưởng khô khan trở nên sinh động, có sức sống. Hàn Phi Tử được xem là “cuốn sách giáo khoa dạy làm vua” độc đáo, mang đậm dấu ấn của chế độ phong kiến Phương Đông. Qua tác phẩm văn học Trung Quốc này, tác giả đã chính thức khai sinh học thuyết Pháp trị, đề cao pháp luật với tư cách là công cụ quan trọng, hữu hiệu nhất trong việc bình ổn xã hội. Tam Quốc Diễn Nghĩa – La Quán Trung Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc như Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký, Nho lâm ngoại sử, Hồng lâu mộng đã được liệt vào kho tàng văn hóa của Trung Quốc, đồng thời cũng là tài sản văn hóa của thế giới. Tam quốc diễn nghĩa thường gọi tắt là Tam quốc là một trong những tiểu thuyết ra đời sớm nhất, được phổ biến rộng rãi và được nhân dân Trung Quốc và thế giới yêu thích. Tiểu thuyết sử thi Tam Quốc bao quát cả một thời kỳ lịch sử gần một thế kỷ từ 184 đến 280 sau Công nguyên. Ba nước Ngụy, Thục, Ngô hình thành thế chân vạc trong quá trình đánh dẹp cuộc khởi nghĩa nông dân và trong cuộc hỗn chiến giữa các chư hầu với nhau. Dựa vào những cuốn biên niên như Hậu Hán thư Phạm Vĩ, Tam quốc chí Trần Thọ, Tam quốc chí chú Bùi Tùng Chi và đặc biệt dựa vào những tác phẩm văn học dân gian, nhà văn La Quán Trung với tài năng sáng tạo của mình đã viết nên bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ này. Liêu Trai Chí Dị – Bồ Tùng Linh Ra đời vào đầu đời nhà Thanh cuối thế kỷ XVII, đoản thiên tiểu thuyết Liêu trai chí dị được đánh giá là đỉnh cao của thể loại tiểu thuyết văn ngôn thời cổ đại, được xếp vào hạng kiệt tác của văn học cổ điển Trung Quốc. Tác giả Bồ Tùng Linh đã tập trung ngòi bút vào ba nội dung chủ yếu là Vạch mặt bọn tham quan, cường hào, ác bá; Phơi bày những tệ lậu của chế độ khoa cử thời xưa; Khát vọng tự do yêu đương, gỡ bỏ những rào cản của hôn nhân thời phong kiến. Phần lớn cốt truyện xoay quanh những mối lương duyên kỳ ngộ kỳ bí nhưng cũng không kém phần lãng mạn giữa con người với hồ ly hoặc ma quỷ. Ngoài ra còn nhiều câu chuyện mang đậm vẻ huyền bí, ít thấy như chuyện Phật, Thánh hiển linh, cao tăng có phép thuật hơn người, vật có phép Với cách xây dựng tình tiết hấp dẫn, cách sử dụng ngôn từ ngắn gọn nhưng sinh động và cách miêu tả cảnh vật và con người tình tứ, bay bổng, Bồ Tùng Linh đã khiến người đọc mười phần bội phục, yêu mến từng nhân vật và cảm thấy hứng thú, say mê theo dõi từ trang đầu cho tới khi gấp cuốn sách văn học Trung Quốc này lại. Liễu Phàm Tứ Huấn – Liễu Phàm Là cuốn sách văn học Trung Quốc được lưu truyền rộng rãi trong dân gian Trung Quốc từ bao đời nay. Liễu Phàm tiên sinh là bậc học rộng, ngay từ nhỏ đã say mê nghiên cứu sách vở, sau đỗ đạt làm quan, thực hiện nhiều điều ích nước lợi dân, được nhiều người biết đến. Nhưng Liễu Phàm thực sự lưu danh không chỉ vì ông là vị quan cương trực, được nhân dân yêu mến, có nhiều công lao với triều đình, mà hơn hết là vì ông đã dành nhiều tâm huyết cũng như chí hướng của đời mình để soạn ra bốn chương đoản văn, bấy giờ gọi là “Giới tử văn” văn răn dạy con để dạy con mình, sau đó được lưu hành rộng rãi trong đời, tức là sách “Bốn bài giáo huấn của người xưa” mà bạn đang có trong tay. “Bốn bài dạy của Liễu Phàm” vốn là bốn chương đoản văn của Cư sĩ Liễu Phàm đời Minh, có tên là Giới tử văn văn dạy con , sau được lưu truyền trong dân gian hơn 5 thế kỷ qua với tựa đề là Liễu Phàm tứ huấn. Ông đã lấy cuộc đời ông, một con người thông đạt đủ các môn khoa học đã học hành, làm quan và đặt biệt là một tấm gương đạo đức, trí tuệ và hiền thiện để khuyên dạy con nhưng chủ yếu là khuyên dạy người đời. Đây là một tác phẩm văn học Trung Quốc lấy giáo lý Phật Giáo làm căn bản để triển khai việc tu thân, sống đạo đức và hành thiện giúp đời. Đông Chu Liệt Quốc – Phùng Mộng Long Đông Chu liệt quốc Đông Chu liệt quốc chí, 東周列國志 là tiểu thuyết lịch sử gồm 108 hồi đề cập đến thời kỳ lịch sử rất dài khoảng hơn 400 năm thế kỷ IX – III trước Công Nguyên của Trung Quốc, bắt đầu từ đời Tuyên vương nhà Chu cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa. Sử sách cũng gọi thời kỳ ấy là đời Đông Chu, được chia làm hai giai đoạn là Xuân Thu và Chiến Quốc. Trong lịch sử Trung Hoa đây là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến phân quyền đến chế độ phong kiến tập quyền. Không dè dặt, chẳng nể nang, tác giả – Phùng Mộng Long dùng ngòi bút của mình nói lên cái bản chất xấu xa, bỉ ổi của giai cấp thống trị. Những mâu thuẫn sâu sắc giữa các tập đoàn thống trị, sự tranh giành quyền lợi giữa các cá nhân, gây nên vô số những cuộc chính biến và những cuộc tàn sát trong hơn bốn thế kỷ. Ông cũng phơi bày hết những thói xấu, sự dâm loạn vô sỉ ở chốn cung đình quan hệ nam nữ bậy bạ giữa anh em ruột, giữa bố chồng và nàng dâu, con chồng và thứ mẫu… Tuyệt tác văn chương Đông chu liệt quốc từng được Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Huy Tiêu và Phó Giáo sư Lê Đức Niệm – những cây đa cây đề nghiên cứu về văn học Trung Quốc nhận xét “Đọc Đông Chu liệt quốc, người đọc sẽ thích thú được biết những điều bí mật trong cung đình mà sử sách nhà nước xưa không bao giờ nói đến”. Tư tưởng toát ra trong suốt bộ tiểu thuyết này là tư tưởng “dân bản” của nhà nho dân là gốc của nước, là sức mạnh của nước; không phải vũ lực quyết định sự thành công hay sự thất bại mà chính là lòng dân. Trong truyện, những bậc anh hùng cứu nước Huyền Cao, Tín Lăng quân, Lạn Tương Như… những nhà trí thức chính trực Đổng Hồ, Lỗ Trọng Liên… ; những người chấp chính có nhiệt tình với dân với nước Quản Trọng, Tử Văn, Tôn Thúc Ngao… đều được tác giả nhiệt liệt ca ngợi và đề cao. Tôn Tử Binh Pháp – Tôn Tử Được xưng tụng là tuyệt tác binh thư hàng đầu của thế giới cổ đại, binh thư kinh điển vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, Tôn Tử binh pháp là một cuốn cổ thư “kỳ quái”, “để trong vườn sẽ tỏa mùi thơm của hoa quý, ném xuống đất sẽ vang tiếng kêu của bạc vàng”. Nó không chỉ được các vua chúa từ đông sang tây xem như sách gối đầu giường, bí kíp quân sự không thể thiếu, mà còn được nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực như triết học, kinh doanh, tâm lý học, ngôn ngữ học, thể dục thể thao… ứng dụng để nghiên cứu và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tôn Tử binh pháp với văn từ gọn ghẽ, nghĩa lý sâu xa, âm điệu bay bổng, nhờ đó sức lan tỏa và tầm ảnh hưởng của “thánh điển binh học” này vô cùng rộng lớn, được dịch ra trên 100 thứ tiếng và xuất bản hầu khắp trên toàn thế giới. “Biết người biết mình, trăm trận không nguy. Không biết người chỉ biết mình, một được một thua. Không biết người không biết mình, hễ đánh là nguy.” AQ Chính Truyện – Lỗ Tấn Từng là một thầy thuốc, nhưng sau đó, Lỗ Tấn đã ngộ ra một chân lý Người thầy thuốc có thể cứu chữa cho con người về thể xác, nhưng không chữa được căn bệnh tinh thần; mà căn bệnh tinh thần của người Trung Hoa trong thời kỳ đó, theo ông, là rất nan y và rất cần có thuốc. Vì thế, ông đã quyết tâm dùng văn chương như một công cụ góp phần thay đổi xã hội. Không chỉ đóng góp về mặt nội dung, truyện ngắn của Lỗ Tấn cũng đem lại sự cách tân đáng kể cho văn học hiện đại Trung Quốc về hình thức. Người đương thời và các thế hệ sau đã công nhận Lỗ Tấn là một “thầy thuốc văn chương”, hay một nhà văn cách mạng. Hồng Lâu Mộng – Tào Tuyết Cần, Cao Ngạc Nền văn hiến Trung Hoa có lịch sử phát triển lâu đời, sở hữu một kho tàng văn học cổ điển đồ sộ, phong phú có sự giao thoa và ảnh hưởng mật thiết đối với nền văn học truyền thống Việt Nam. Khá nhiều tác phẩm nổi tiếng của văn học Trung Hoa từ rất lâu đã rất quen thuộc với người đọc Việt. Trong lĩnh vực văn xuôi, tiểu thuyết chương hồi đã phát triển đến trình độ huy hoàng, để lại rất nhiều trước tác bất hủ lừng danh thế giới mà nổi bật nhất là Tứ đại kỳ thư, mà nổi bật nhất là Tứ đại kỳ thư gồm Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du ký, Hồng lâu mộng – bốn đỉnh cao rực rỡ của văn học cổ điển Trung Hoa. Bên cạnh đó, còn rất nhiều những pho tiểu thuyết đặc sắc khác từ lâu đã trở thành kinh điển, như Liêu trai chí dị, Dương gia tướng, Phong thần diễn nghĩa… Những tác phẩm cổ điển đó luôn lấp lánh một vẻ đẹp thần bí khó cưỡng, như ánh hào quang tỏa ra từ kho báu ngàn xưa, đang chờ chúng ta khám phá. Phong Thần Diễn Nghĩa – Hứa Trọng Lâm Phong Thần Diễn Nghĩa là một bộ tiểu thuyết lịch sử kể lại quá trình Võ Vương hội hiệp chư hầu phạt Trụ, thiết lập nhà Châu của tác giả Hứa Trọng Lâm, một văn nhân đời Minh. Đi từ cốt lõi lịch sử là cuộc chiến chống Trụ bạo tàn, cuốn sách văn học Trung Quốc này đã hòa cuộn những tư liệu lịch sử với những hư cấu, truyền thuyết, tôn giáo để tạo nên một cốt truyện hấp dẫn, thể hiện sâu sắc xung đột giữa “chính” và “tà”. Dù có xuất hiện các nhân vật thần tiên, ma quỷ, chân lý cuối cùng mà tác phẩm muốn khẳng định vẫn là sự chiến thắng của những con người đại diện cho chính đạo, nhân nghĩa. Đọc Phong Thần Diễn Nghĩa, không ai có thể phủ nhận óc sáng tạo dồi dào của tác giả trước những tình tiết gay cấn, cách thức bày binh bố trận, cuộc đấu phép so tài đầy lý thú, hãy lật mở từng trang sách và chúng ta sẽ lý giải được điều đã làm nên sự hấp dẫn của tác phẩm cho đến ngày hôm nay! Vạn Huê Lầu Diễn Nghĩa – Lý Vũ Đường Truyện “Vạn Huê Lầu diễn nghĩa” phản ánh khá chân thực lịch sử thời Bắc Tống, Trung Quốc. Các tình tiết gay cấn, được đẩy lên cao trào khắc họa mâu thuẫn giữa hai phe trung thần và gian thần trong triều vua Tống. Nổi bật lên hình tượng Địch Thanh kiên trung hết lòng vì nước, xông pha nơi trận mạc chiến đấu chống quân Tây Hạ và nhân vật Bao Công thiết diện vô tư, chống lại những mưu mô xảo trá để Thiện – Ác minh bạch. Cuốn sách văn học Trung Quốc này được viết theo lối truyện dài Trung Quốc với những tình tiết hư cấu lôi cuốn bạn đọc từ những hồi đầu tiên. Kết Luận Trên đây là TOP 12 Cuốn tác phẩm văn học Trung Quốc hay nhất mà chúng mình tổng hợp được. Hy vọng qua những gợi ý phía trên, độc giả sẽ sớm tìm được những cuốn sách phù hợp với bản thân. Chúc bạn đọc sức khỏe và thành công. Hẹn gặp lại bạn ở bài viết tiếp theo!
Văn hóa Trung Quốc thời Đường Trung Quốc dưới thời nhà Đường cai trị được coi là thời kì hoàng kim, thời kì đáng được vinh danh trong lịch sử Trung Hoa. Vậy dưới sự cai trị của triều đại nhà Đường, Trung Quốc đã gặt hái được những thành tự đáng ca ngợi nào ? Cùng TIẾNG TRUNG DƯƠNG CHÂU tìm hiểu ngay trong bài viết này nhé ! Văn hóa Trung Quốc thời Đường Giới thiệu Triều đại nhà Đường đã cống hiến cho Trung Hoa rất nhiều thành tựu to lớn, đáng được ca ngợi. Thời kì này đã được người đời ca ngợi là thời kì hùng mạnh nhất trong lịch sử Trung Hoa. Thời đại hoàng kim này nằm giữa giai đoạn 2 hoàng đế cai trị đó là Hoàng đế Đường Thái Tông Thịnh triều Trinh Quán và Hoàng đế Đường Nhân Tông Thịnh triều Khai Nguyên. Trong giai đoạn này, Trung Quốc Đại Lục nhận lấy một không khí yên bình, thịnh vượng của một quốc gia hùng mạnh. Sự thái bình lan tỏa trên toàn quốc gia, trong mọi lĩnh vực xã hội, văn hóa, kinh tế, nghệ thuật,… Và thời kì này còn được các hoàng đế đời sau tôn vinh với tên gọi “ Thịnh Đường Khí Tượng” Để có được những thành tựu to lớn như ngày hôm nay. Hai vị vua Đường Thái Tông và Đường Nhân Tông đã cống hiến rất nhiều công sức, công lao để đánh đổi được. Sự anh minh chính trực, cao thượng, bao dung, sự yêu thương nhân dân của hai vị hoàng đế là yếu tố quan trọng tạo nên thành công này. Bên cạnh đó là sự tài giỏi, sáng kiến của các vị. Sự chiêu mộ nhân tài có năng lực và đạo đức. Và còn cả những ý kiến đóng góp một cách thẳng thắn của các vị hoàng đế đã làm nên một vương triều hùng mạnh. Có thể nói rằng, đây chính là hình mẫu hoàng đến cho các vị hoàng đế cai trị các đời tiếp theo. Văn hóa Trung Quốc thời Đường Giải quyết nỗi sợ lớn nhất của các học viên học tiếng Trung Nhớ chữ Hán. Đừng lo, đã có ” Luyện nhớ 3300 chữ Hán”. Đây là tài liệu tích hợp nhiều chức năng tập viết và nhớ chữ Hán cùng lúc, nắm vững ngữ nghĩa và cách sử dụng từ. Qua đó, bộ sách sẽ giúp bạn tiết kiệm thời gian học tiếng trung một cách tối đa đấy nhé. Tham khảo ngay nào. Văn chương và Nghệ thuật Văn chương Thời nhà Đường đã để lại cho con cháu đời sau tác phẩm nghệ thuật “Đường Thi”. Tác phẩm này được biên soạn trong thời kì của Hoàng đế vua Khang Hy. Một tác phẩm là sự quy tụ của hơn bài thơ với hơn 2200 nhà thơ khắp Trung Quốc Đại Lục. Lượng bài thơ và thể loại của bài thơ ngày càng một đa dạng. Đây chính là những tinh túy của thời nhà Đường và cũng là một ngôi sao sáng đóng góp cho văn chương Trung Quốc. Bên cạnh sự phong phú và đa dạng còn thể hiện được sự ưu tú và giá trị nghệ thuật đỉnh cao. Mở đầu tác phẩm “Đường Thi” chính là 10 tác phẩm tuyệt đỉnh thơ Đường của hoàng đế Đường Thái Tông. Trọn bộ 10 tác phẩm nằm trong tập thơ “Đế Kinh Thiên Thập Thủ”. Nội dung những câu thơ toát lên khí chất ngời ngời làm rung động độc giả. Văn hóa Trung Quốc thời Đường Tác phẩm “Tâm tùy lãng nhật cao, Chí dư thu sương khiết” Tạm dịch Tâm theo vầng dương buổi sớm nhô lên, Ý chí thanh cao như hoa cúc mùa thu Hai câu văn được trích từ tác phẩm Thăm lại chiến địa đánh bại Tiết Cử. Những tác phẩm thơ của hoàng đế Đường Thái Tông toát lên vẻ đẹp của trí tuệ uyên bác, thâm sâu và cả sự nhân từ, bao dung. Không những thế, trong thời kì hoàng kim này còn có rất nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng vang danh như là Lý Bạch, Đỗ Phủ và cả Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy. Những tác giả với những tác phẩm nổi tiếng để đời. Mỗi người một vẻ, một phong cách khác nhau. Nếu như Mạnh Hạo Nhiên và Vương duy là hai ông hoàng của thơ phong cảnh thì Cao Cát và Sầm Tan là những cái tên toát lên những tác phẩm dân dã, bình yên. Về sau còn có các nhà thơ khác nữa nổi bật với thể loại thơ ca thời Thịnh Đường. Lý Bạch viết Câu hoài dật hưng tráng tư phi Dục thướng thanh thiên lãm minh nguyệt Trừu đao đoạn thủy thủy canh lưu Cử bôi kiêu sầu sầu canh sầu. Tạm dịch Thi hứng dâng cao khoe tráng chí Hái trăng kia vào tay ta mau Rút đao chém xuống nước nước càng chảy mạnh Nâng chén tiêu sầu sầu nặng thêm Bài thơ Bỏ ta mà đi Đỗ Phủ viết Hoàng hoàng Thái Tông nghiệp Thụ lập thậm hoành đạt Tạm dịch Cơ nghiệp Thái Tông hùng vĩ lắm Công lao gầy dựng lại tưng bừng Bài thơ Bắc Chinh Vương Duy viết Giang lưu thiên địa Ngoại sơn sắc hữu vô trung Tạm dịch Dòng sông chảy ra ngoài trời đất Sắc núi như có như không Bài thơ Ngắm Sông Hán từ xa. Nghệ thuật Bên cạnh sự thành công của thi ca, thời Đường còn nổi bật với những tản văn, truyền kì mạn lục và cả tiểu thuyết Tất cả các thể loại thơ ca, văn học đều chạm đến ngưỡng đỉnh cao. Mỗi thể loại đều gặt hái được những thành công riêng biệt, xuất sắc. Nội dung các tác phẩm thời Đường thường viết về con người, cuộc sống, nhân sinh, phản ánh điểm xấu của xã hội, biểu hiện sự tinh thông trí tuệ, dũng khí cả trách nhiệm nữa. Thư pháp và Hội họa Thời kì này, nhà vua Đường Thái Tông vô cùng coi trọng nghệ thuật thư pháp. Nhà vua đã lập riêng một hội nhóm mang tên Hồng Văn Quán. Tại hội quán này ông đã đề cử những nhà thư pháp vô cùng nổi tiếng để đào tạo và giảng dạy tại đây. Một chỉ thi của ông được bạn xuống những vị quan hay cả quần thần từ hàng ngũ phẩm thì đề phải học tập thư pháp tại Hồng Văn Quán. Thời điểm đó, Vương Hy Chi là một người rất được khen ngợi. Tài nghệ thư pháp của ông vô cùng nổi tiếng. Những tác phẩm của ông còn được khen ngợi “tận thiện, tận mỹ”. Sau khoảng thời đó, thư pháp được phát triển một cách chính thống. Dưới sự tác động của nhà vua Đừng Thái Tông, các hoàng đến đời sau một lòng mến mộ tinh thần này của ông, như Đường Cao Tông, Đường Trung Tông hay cả Đường Duệ Tông. Văn hóa Trung Quốc thời Đường Tiếp đến nói về hội họa. Thời kì này sự phát triển hội họa cũng vô cùng đặc sắc . Một tác phẩm mang tên “Chân dung Thái Tông và 24 công thần” tác giả Diêm Lập Bổn được đánh giá vô cùng cao quý. Điêu khắc cùng với bích họa đã phát triển rất thành công trong triều đại này. Cách tạo hình, sự phong phú và đa dạng về màu sắc và cả sự tinh tế. Tất cả đều thể hiện lên phong thái trầm mặc, ung dung. Một tác phẩm như “Tây Phương Tịnh Thổ” là bức họa nổi tiếng đã toát lên được sự tráng lệ của thế giới. Nhạc Vũ nghệ thuật Nhắc đến nhạc vũ, văn hóa thời Đường đã đón nhận, thừ kế được những giá trị tinh túy nhất từ nhạc vũ từ phương tây. Điều này đã thể hiện lên một cuộc sống hòa bình, hưng thịnh, một triều đại tuyệt mỹ. Từ tất cả các chủng loại văn chương thời nhà Đường , nhạc vũ luôn tràn đầy khí thế. Các nhạc cụ âm nhạc cũng vô cùng phong phú và đa dạng từ đàn, trống, phách, …. Tất cả đều mang lại những giai diệu du dương và âm hưởng nhẹ nhàng mà sâu lắng. Tất cả đều phản chiếu lên một gia điệu vô cùng dễ chịu toát lên vẻ đẹp của văn hóa Trung Hoa. Đặc biệt phải kể đến “Thanh Thương Nhạc” đã xuất than từ thời Hán, hay cả “Tây Lương Nhạc” nữa. Văn hóa Trung Hoa Lý tưởng và Tín ngưỡng Thời đại văn hóa thời Đường rất tín ngưỡng Khổng Giáo , Phật Giáo và cả Đạo Giáo. Tất cả 3 đạo đều phát triển lên đến đỉnh cao. Tất cả các tín ngưỡng của cả 3 đạo đều giúp tất cả con người điều chỉnh lại tư duy của chính bản thân mình. Thời đại này tất cả hành vi, lối sống đều phải duy trì những phẩm chất cao quý. Họ tôn sùng Nho giáo, tâm hướng Phật Giáo, bảo hộ Đại giáo. Chính vì vậy mà đây là thời kì đỉnh cao. Nhà vua Đường Thái Tông đã hạ lệnh để biên soạn lại cuốn sách “Ngũ Kinh Chính Nghĩa”. Và từ đó, cuốn sách này trở thành một quyển sách kinh điển từ thời đại đó. Đây cũng được coi là một chuẩn mực cho các thế hệ về sau. Tư tưởng Đạo gia được phát sáng hào quang trong thời kì nhà Đường này. Rất nhiều các học giả, cao nhân, tu nhân,… quyết tâm đồng lòng tu luyện. Nền hội họa, nhạc vũ, tu đạo tất cả đều để lại những tác phẩm để đời cho con cháu sau này. Tư tưởng tôn quý Phật Giáo được truyền bá vô cùng rộng rãi. Rất nhiều sách Phật giáo, kinh thư được biên soạn. Người dân ai ai cũng 1 lòng tín tâm. Vào thời điểm đó, hòa thượng Trần Huyền Trang một lòng tâm nguyện từ bi. Chính vị hòa thượng này đã dành 17 năm đi đến khu vực Tây Ấn Độ để mang lại thành quả 657 bộ sách kinh. Sau đó, vị hòa thượng này đã an âm tịnh tại chùa Từ Ân tại Trường An. Sau khi an tịnh tại Trường An, vị hòa thượng đã biên dịch toàn bộ kinh thư của mình dang bản Hán văn. Đối ngoại và Giao lưu Văn hóa Nhà vua Đường Thái Tông đã hạ lệnh chính sách “Nhu hoài vạn quốc”. Lúc này đúng là thời hoàng kim của triều đại, có đến hơn 300 quốc gia đã phái các sứ giả của quốc gia đến đây. Chính triều đại này đã thành lập rất nhiều cơ chế để tiếp các các sứ giả hơn 300 quốc gia. Sứ giả từ năm châu trến thế giới từ Á Châu cho đến Phi Châu đều được cử đến Trung Quốc. Phần lớn họ đến nhà Đường với mục đích để giao lưu, học hỏi từ đây. Từ đó, Trường An đã trở thành một kinh thành của cả thế giới – nơi được quy tụ rất nhiều văn hóa. Lúc này Quốc Tử Giám nổi tiếng với tổng cong 5000 học giả trên toàn thế giới. Mọi học giả trên toàn thế giới đều phải công nhận danh tiếng của Quốc Tử Giám. Thời kì huy hoàng này đã có tầm ảnh hưởng văn hóa với rất nhiều quốc gia trên thế giới. Dường như chính thời kì này đã tạo lên một kho báu về tất cả mọi mặt cho thế giới. Có thể coi rằng đây là mọt trang sử huy hoàng trong thời kì Trung Hoa. Trên đây là những thông tin văn hóa thời Đường. Tham gia ngay khóa học online tiếng Trung để hiểu kĩ hơn về văn hóa Trung Hoa nhé ! Mọi thông tin thêm về các khóa học mọi người có thể liên hệ tư vấn trực tiếp Inbox fanpage Tiếng Trung Dương Châu Shop Tiki Shop Shopee Shop Lazada ? Hotline – ?️ Cơ sở 1 số 10 ngõ 156 Hồng Mai – Bạch Mai – Hà Nội. ?️Cơ sở 2 tầng 4 – số 25 – ngõ 68 Cầu Giấy
Thị Minh Phương Lê Thời cổ trung đại, Trung Quốc có một nền văn học rất phong phú. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, văn học Trung Quốc đã bắt đầu phát triển. Đến thời Tây Hán tư tưởng Nho gia được đề cao. Nho gia là trường phái rất coi trọng việc học tập, vì vậy từ Hán về sau những người có thể cầm bút viết văn trong xã hội Trung Quốc rất nhiều. Đến thời Tùy Đường chế độ khoa cử bắt đầu ra đời, trong đó văn chương trở thành thước đo chủ yếu của tài năng; do đó văn học Trung Quốc càng có những thành tựu lớn lao. Văn học Trung Quốc thời kỳ này có nhiều thể loại như thơ, từ, phú, kịch, tiểu thuyết..., trong đó tiêu biểu nhất là Kinh Thi, thơ Đường và tiểu thuyết Minh - Kinh ThiKinh Thi là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học đầu tiên của Trung Quốc, được sáng tác trong khoảng 500 năm từ đầu thời Tây Chu đến giữa thời Xuân Thu. Thời đó, thơ cũng là lời của bài hát. Vì vậy, vua Chu và vua các nước chư hầu thường sai các viên quan phụ trách về âm nhạc của triều đình sưu tầm thơ ca của các địa phương để phổ nhạc. Những bài thơ sưu tầm, phần lớn được tập hợp lại thành một tác phẩm gọi là Thi. Trên cơ sở đó, Khổng Tử đã chỉnh lý lại một lần nữa. Đến thời Hán, khi Nho giáo được đề cao, Thi được gọi là Kinh Thi có 305 bài chia làm 3 phần là Phong, Nhã, Tụng. Phong là dân ca của các nước tên gọi là Quốc Phong. Nhã gồm có hai phần gọi là Tiểu Nhã và Đại Nhã. Nhiều người cho rằng Tiểu Nhã là những bài thơ do tầng lớp quý tộc nhỏ sáng tác, Đại Nhã là những bài thơ do tầng lớp quý tộc lớn sáng tác. Còn Tụng bao gồm Chu Tụng, Lỗ Tụng và Thuông Tụng là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ và bói toán sáng tác dùng để hát khi cúng tế ở miếu các phần đó, Quốc Phong có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao nhất. Bằng lời thơ gọn gàng thanh thoát mộc mạc nhưng đầy hình tượng, những bài dân ca này đã mỉa mai hoặc lên án sự áp bức bóc lột và cảnh giàu sang của giai cấp thống trị, nói lên nỗi khổ cực của nhân dân. Ví dụ, trong bài Chặt gỗ đàn có đoạn viết Không cấy không gặt,Lúa có ba bắn không săn,Sân treo đầy ngài quân tửChớ ngồi ăn nhiên, chiếm tỉ lệ nhiều nhất và hay nhất là những bài thơ mô tả tình cảm yêu thương gắn bó hoặc buồn bã nhớ nhung hoặc bâng khuâng mong đợi giữa trai gái vợ chồng. Ví dụEm đi cắt dây sắn mới một ngày,Mà tưởng ba tháng này không được thấy mặt nhau,Em đi cắt cỏ hương mới một ngày,Mà tưởng ba thu này không được thấy mặt nhau,Em đi hái ngải cứu mới một ngày,Mà tưởng ba năm này không được thấy mặt nhau.Cắt cây sắn dây - Vương PhongLà một tập thơ được sáng tác trong 5 thế kỷ, Kinh Thi không những chỉ có giá trị về văn học mà còn là một tấm gương phản ánh tình hình xã hội Trung Quốc đương thời. Ngoài ra tác phẩm này còn được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tư tưởng của nó. Chính Khổng Tử đã nói“Các trò sao không học Thi? Thi có thể làm cho ta phấn khởi, có thể giúp ta mở rộng tầm nhìn, có thể làm cho mọi người đoàn kết với nhau, có thể làm cho ta biết oán giận. Gần thì có thể vận dụng để thờ cha, xa thì thờ vua. Lại biết được nhiều tên chim muông cây cỏ”. Luận ngữ - Dương hóa.b Thơ ĐườngThời kỳ huy hoàng nhất của thơ ca Trung Quốc là thời Đường 618-907. Trong gần 300 năm tồn tại, thời Đường đã để lại tên tuổi của trên nhà thơ với gần tác với sự thăng trầm về chính trị, thời Đường được chia thành 4 thời kỳ là Sơ Đường 618-713, Thịnh Đường 713766, Trung Đường 766-827 và Văn Đường 827-904. Thịnh Đường chủ yếu là thời kỳ trị vì của Đường Huyền Tông với hai niên hiệu Khai Nguyên 713-741 và Thiên Bảo 742-755. Đây là thời kỳ tương đối ổn định về chính trị, phát triển về kinh tế, đặc biệt đây là thời kỳ phát triển rất cao về văn Đường không những có số lượng rất lớn mà còn có giá trị rất cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hơn nữa, đến thời Đường, thơ Trung Quốc cũng có một bước phát triển mới về luật nhà thơ đời Đường sáng tác theo 3 thể Từ, Cổ phong, Đường là một loại thơ đặc biệt ra đời giữa đời Đường, kết hợp chặt chẽ với âm nhạc. Vì viết theo những điệu có sẵn nên sáng tác từ thường gọi là điền phong là thể thơ tương đối tự do, không bị ràng buộc về số chữ trong một câu nhưng thường là 5 và 7 chữ, số câu trong bài, về cách gieo vần có thể gieo cả vần trắc lẫn vần bằng, về niêm, luật, đối tuy vậy cũng có bài tiếp thu một số yếu tố của thơ luật để tạo nên các kiểu trung gian.Đường luật gồm 3 dạng chính bát cú tám câu, có thể là “thất ngôn” hoặc “ngũ ngôn”, tuyệt cú bốn câu và bài luật còn gọi là trường luật, có nghĩa là một bài thơ luật kéo dài. Có thể coi thất ngôn bát cú là dạng cơ bản vì từ nó có thể suy ra các dạng số các thi nhân đời Đường còn lưu tên tuổi đến ngày nay, Lý Bạch, Đỗ Phủ thuộc thời Thịnh Đường và Bạch Cư Dị thuộc thời Trung Đường là ba nhà thơ tiêu biểu Bạch 701-762 là một người tính tình phóng khoáng, thích tự do, không chịu được cảnh ràng buộc luồn cúi. Do vậy, tuy học rộng tài cao nhưng ông không hề đi thi và chưa làm một chức quan gì chính thức cả. Ông lại là một người yêu quê hương đất nước và rất thông cảm với nỗi khổ cực của nhân dân lao động, do vậy thơ của ông phần lớn tập trung miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên, đồng thời có nhiều bài phản ánh đời sông của nhân dân. Đặc điểm nghệ thuật thơ Lý Bạch là lời thơ đẹp và hào hùng, ý thơ có màu sắc của chủ nghĩa lãng mạn. Bài thơ “Xa ngắm thác núi Lư” sau đây là một ví dụNắng rọi hương Lô khói tía bay,Xa trông dòng thác trước sông nàyNước bay thẳng xuống ba nghìn thước,Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi Phủ 712-770 xuất thân từ một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Bản thân ông mặc dù học rất rộng nhưng thi không đỗ, mãi đến năm 40 tuổi mới làm mấy chức quan nhỏ trong 7 năm. Tuy vậy suốt đời ông phải sống trong cảnh nghèo nàn. Cuộc đời lận đận đó đã giúp ông hiểu thấu cuộc sống khổ cực của nhân dân, do đó phần lớn thơ của Đỗ Phủ đều tập trung miêu tả những cảnh bất công trong xã hội, miêu tả cảnh nghèo khổ và những nỗi oan khuất của nhân dân lao động, vạch trần sự áp bức bóc lột và xa xỉ của giai cấp thống trị. Ví dụ trong bài thơ “Từ kinh đô về huyện Phụng Tiên” ông đã mô tả tỉ mỉ với dụng ý tố cáo cảnh xa hoa phè phỡn của Đường Huyền Tông, Dương Quý Phi và cả tập đoàn quý tộc ở Ly Sơn với những câuBóng đèn ngọc chập chờn sáng rựcQuan Vũ lâm chầu chực đông sao!Vua tôi sung sướng xiết baoKẻ ra bàn tắm người vào bàn mây khói lồng che mặt ngọcNhững nàng tiên ngang dọc thềm trongÁo cừu điêu thử người dùngĐàn vang sáo thét, não nùng sướng taiMóng dò ninh người xơi rỉm rótThêm chanh chua, quất ngọt, rượu tiếp sau đó ông nêu lên cảnh trái ngược trong xã hộiCửu son rượu thịt để ôiCó thằng chết lả xương phơi ngoài bài thơ có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao như vậy của Đỗ Phủ rất nhiều, vì vậy ông được đánh giá là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn nhất đời Cư Dị 772-846 xuất thân từ gia đình địa chủ quan lại, năm 26 tuổi đậu Tiến sĩ, đã làm nhiều chức quan to trong triều, nhưng đến năm 44 tuổi thì bị giáng chức làm Tư Mã Giang Cư Dị đã đi theo con đường sáng tác của Đỗ Phủ, đã làm nhiều bài thơ nói lên nỗi khổ cực của nhân dân và lên án giai cấp thống trị. Thơ của Bạch Cư Dị không những có nội dung hiện thực tiến bộ mà có nhiều bài đã đạt đến trình độ rất cao về nghệ thuật. Đáng chú ý hơn nữa là trong những bài thơ lên án giai cấp thống trị, ông đã dùng những lời lẽ khi thì chua cay, khi thì quyết liệt. Ví dụ lên án sự ức hiếp tàn nhẫn của các quan lại đối với nhân dân trong việc thu thuế, trong bài “Ông già Đỗ lăng” ông đã viết Quan trên biết rõ mà không xét,Thúc lấy đủ tô cầu lập đất cầm dâu nộp cho đủ,Cơm áo sang năm trông vào đâu?Lột áo trên mình ta,Cướp cơm trong miệng ta,Hại người hại vật là hùm sói,Cứ gì cào móng nghiến răng ăn thịt khi bị giáng chức, ông trở nên bi quan nên tính chiến đấu ở trong những bài thơ cuối đời của ông không được mạnh mẽ như trước nữa. Mặc dầu vậy, ông vẫn là một nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn của Trung Quốc thời lại, thơ Đường là những trang rất chói lọi trong lịch sử văn học Trung Quốc, đồng thời, thơ Đường đã đặt cơ sở nghệ thuật, phong cách và luật thơ cho nền thi ca Trung Quốc các thời kỳ sau này. Thơ Đường cũng có ảnh hưởng lớn đến thơ ca Việt Tiểu thuyết Minh - ThanhTiểu thuyết là một hình thức văn học mới bắt đầu phát triển từ thời Minh - Thanh. Trước đó, ở các thành phố lớn thường có những người chuyên làm nghề kể chuyện, đề tài của họ thường là những sự tích lịch sử. Dựa vào những câu chuyện ấy, các nhà văn đã viết thành các tiểu thuyết chương hồi. Những tác phẩm lớn và nổi tiếng trong giai đoạn này là Truyện Thủy hử của Thi Nại Am, Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Tây du ký của Ngô Thừa Ân, Nho Lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần Thủy hử kể lại cuộc khởi nghĩa nông dân của Lương Sơn Bạc do Tống Giang lãnh đạo. Qua tác phẩm này, tác giả không những đã thuật lại rõ ràng quá trình diễn biến của cuộc khởi nghĩa mà còn hết sức ca ngợi tài trí và sự dũng cảm của các vị anh hùng nông dân, do đó thời Minh - Thanh, tác phẩm này bị liệt vào loại sách cấm. Mặc dầu vậy, những câu chuyện của các anh hùng Lương Sơn Bạc vẫn được lưu truyền trong nhân dân và đã có tác dụng cổ vũ rất lớn đối với sự đấu tranh của nông dân chống sự áp bức bóc lột của giai cấp phong quốc chí diễn nghĩa bắt nguồn từ câu chuyện ba người Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi kết nghĩa ở vườn đào lưu truyền trong dân gian. Nội dung miêu tả cuộc đấu tranh về quân sự, chính trị phức tạp giữa ba nước Ngụy, Thục, du ký viết về chuyện nhà sư Huyền Trang và các đồ đệ tìm đường sang Ấn Độ lấy kinh Phật, trải qua rất nhiều gian nan nguy hiểm ở dọc đường, cuối cùng đã đạt được mục đích. Tác giả đã xây dựng cho mỗi nhân vật của tác phẩm một tính cách riêng, trong đó nổi bật nhất là Tôn Ngộ Không, một nhân vật hết sức thông minh, mưu trí, dũng cảm và nhiệt tình, đồng thời qua Tôn Ngộ Không, tính chất chống phong kiến của tác phẩm được thể hiện rõ lâm ngoại sử là một bộ tiểu thuyết trào phúng viết về chuyện làng nho. Qua tác phẩm này, Ngô Kính Tử đả kích chế độ thi cử đương thời và mỉa mai những cái xấu xa của tầng lớp trí thức dưới chế độ thi cử lâu mộng giấc mộng lầu hồng viết về câu chuyện hưng suy của một gia đình quý tộc phong kiến và câu chuyện yêu đương giữa một đôi thiếu niên, nhưng qua đó, tác giả đã vẽ nên bộ mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc trong giai đoạn suy tàn. Bằng cách xây dựng cho hai nhân vật chính của tác phẩm là Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc tính cách chống đối chế độ thi cử, chế độ quan trường, đạo đức và lễ giáo phong kiến, khát vọng tự do và hạnh phúc, đồng thời dành cho những người thuộc tầng lớp bị coi là thấp kém những tâm hồn cao đẹp và tình cảm chân thành, tác giả đã đánh trực tiếp và khá mạnh vào hệ ý thức của giai cấp phong kiến lúc bấy giờ. Vì vậy, Hồng lâu mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng văn học hiện thực cổ điển Trung Quốc 0 Trả lời 10/11/21
– Văn học Thời Đường, thơ ca Trung Quốc có bước nhảy vọt. Về văn học, thời Đường thịnh nhất là thơ. Thơ Đường có số lượng lớn, phản ánh sâu sắc đời sống xã hội lúc bây giờ và đạt đến trình độ cao về nghệ thuật. Trong hơn nhà thơ còn lưu tên tuổi thì Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị là những thi nhân ưu tú nhất mở tên tuổi còn sáng mãi đến ngày nay. – Phật giáo + Từ cuối thời Tây Hán, Phật giáo từ Ấn Độ được truyền vào Trung Quốc. Lúc đầu, Phật giáo chỉ được truyền bá rộng rãi trong nhân dân, chùa chiên dần được xây dựng. + Đến thời Tùy, Đường, Phật giáo đã thịnh hành. Các nhà sư như Huyền Trang, Nghĩa Tĩnh đã tìm đường sang Án Độ để tìm hiểu giáo lí của đạo Phật. Ngược lại, nhiều nhà sư của các nước Án Độ, Cham-pa lại đến Trung Quoc truyền đạo. Kinh Phật được dịch ra chữ Hán ngày một nhiều. + Khi Bắc Tống mới thành lập, nhà vua cũng tôn sùng Phật giáo, nên đã cho xây chùa, tạc tượng, in kinh và tiếp tục cử các nhà sư đi tìm hiểu thếm về đạo Phật tại Ấn Độ. – Nho giáo Đến thời Tống, Nho giáo được phát triển thêm một bước về lí luận. Các vua Tống đề cao Nho học, đồng thời cũng làm cho Nho giáo đượm thêm màu sắc tôn giáo. – Thời Tống là giai đoạn phát triển nhất của từ. Từ là lời của điệu nhạc có sẵn, do thơ Đường biến thể mở thành. Đây là một hình thức văn học nghệ thuật phục vụ cho giai cấp phong kiến và cũng là món ăn tinh thần của tầng lớp thị dân.
Cơ sở 1 Số 10 ngõ 156 Hồng Mai, Bạch Mai, Hà NộiBản đồ Cơ sở 2 tầng 4 số 25 ngõ 68 Cầu Giấy, Hà Nội Bản đồ Hotline Học online Cơ sở 1 Cơ sở 2 tiengtrungduongchau2020 8h - 21h15 các ngày kể cả chủ nhậtRiêng thứ 7 từ 8h - 17h
văn học trung quốc thời đường