Các chùm cà phê khi bị tuốt ra sẽ bong luôn lớp vỏ ở mắc cành tạo nên vết thương lớn làm cho cành đó chết luôn. Chẳng khác nào dùng kéo cắt cành rồi ngồi tuốt. Nói vui là giúp cho việc tuốt trộm thì tốt hơn. Nếu dùng mà ko hư cành, rụng lá thì quá tốt. Điểm 10 cho Xanh Cafe. Xin bà con cùng thẩm định, cho ý kiến. Bước 1. 10 phút. Để sơ chế, bạn rửa thịt ba rọi bằng nước lạnh với một chút muối và nước cốt chanh để thịt sạch và trắng. Chanh còn giúp cho phần mỡ thịt khi kho được trong và ngon mắt hơn. Sau khi rửa sạch và để ráo, cắt thịt ba rọi thành từng khúc vừa ăn Mỗi lần nhớ đến món thịt kho tàu là nhà cháu lại ứa nước miếng. Ngày xưa khó khăn, thịt quý lắm nên mỗi lần làm món này đúng là một ngày hội với Cách làm: Bước 1: Thịt chân giò mua về rửa lại nhiều với nước muối, để ráo. Ướp 1/2 thìa cà phê hạt tiêu + 2 thìa cà phê hạt nêm vào bên trong miếng thịt chân giò. Bước 2: Dùng tay cuộn tròn thịt chân giò vào trong lớp da theo chiều dài như bó giò và dùng dây bó chắc cash. Dứa ăn thịt – Bromeliads Loài cây này thuộc loài dứa. Các chiếc lá sẽ ôm xung quang tạo thành một vùng trũng, ở giữa chứa chất lỏng thu hút côn trùng. Con mồi của loài cây này thường là các động vật nhỏ như côn trùng. Cây rắn hổ mang Loài cây này chủ yếu sống ở phía bắc California và phía nam Oregon, Mỹ. Môi trường sống là các vùng đầm lầy, nơi ẩm ướt, có thể đạt kích thước lên tới 2 mét. Lá của loài cây này có hình dáng một con rắn hổ mang đàng thè lưỡi. “Chiếc lưỡi” này sẽ làm nhiệm vụ thu hút con mồi. Khi con mồi sập bẫy, nó sẽ bị hút lên vùng đỉnh cây và tại đây, chúng sẽ bị một loại nước nhấn chìm cho đến chết, bị phân hủy bởi các vi sinh vật và cây sẽ hút loại nước trên để nuôi dưỡng cơ thể. Cây Roridula Loài cây này dạng thân dài, trên đó có các gai tiết ra chất nhầy nhằm mục đích dính sâu bọ nếu chúng bay vào. Khi con mồi dính bẫy, các chất tiêu hóa ngay lập tức “bủa vây” và khiến con mồi thối rữa dần, cây sẽ hấp thụ dinh dưỡng từ đó. Cây nắp ấm Loài cây này có rất nhiều phân loài khác nhau và cũng có các hình dạng khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều có điểm chung là phần lá của chúng đều có tạo hình chiếc ấm khá độc đáo. Bên trong “chiếc ấm” này chứa các chất nhầy là các enzim tiêu hóa và các lông xung quang để bắt con mồi. Khi con mồi bay vào, một phần lá hình chiếc nắp ngay lập tức khép lại tóm gọn con mồi và chúng dần bị men tiêu hóa phân hủy dần. Theo thống kê, có loại cây nắp ấm chỉ bắt ruồi, muỗi hoặc côn trùng nhưng cũng có loại cây bắt cả chuột, dơi… và các động vật lớn khác. Cây gọng vó Cây này có tên khoa học là Drosera burmannii Vahl và có hơn 170 phân loài khác nhau, qua đó trở thành cây ăn thịt khá phổ biến trên thế giới. Môi trường sống của cây gọng vó thường là các bãi bùn lầy, chúng đặc trưng với các lông gai màu sắc sặc sỡ, đầu lông gai có tiết ra một chất nhầy và đây chính là chiếc bẫy để “dụ” côn trùng vào đó. Khi côn trùng bay vào, các chất nhầy sẽ giữ côn trùng lại. Càng vùng vẫy, chúng sẽ càng bị dính chặt và một hồi sau thì kiệt sức. Sau đó, cây sẽ tiết ra chất tiêu hóa và con mồi sẽ bị “ăn” trong khoảng 2 ngày, những bộ phận con mồi không thể tiêu hóa sẽ bị gió thổi bay. Cây hố bẫy Có tên khoa học là Sarracenia, loài cây này sống chủ yếu trong các đầm lầy Bắc Mỹ. Cây hố bẫy có hình dáng khá giống cây nắp ấm nhưng có bao đài dài hơn, phiến lá có nắp sặc sỡ, bên trong chiếc bao đài đó có nhiều tuyến tiết mật thu hút sâu bọ. Cách cây hố bẫy săn mồi khá giống cây nắp ấm. Cây cỏ bơ butterwort Loài cây này sống ở những khu vực ẩm ướt ở châu Mỹ, châu Âu và Bắc Á. Đặc trưng của cây cỏ bơ là những chiếc lá có các lỗ chứa chất dính hình giọt nước với mục đích thu hút côn trùng. Khi côn trùng tưởng đó là nước và bay vào uống, nó sẽ bị dính vào chất nhầy này. Cây có bơ sẽ tiếp tục tiết thêm nhiều chất nhầy khác để bao vây côn trùng đó. Con mồi sẽ bị dính chặt và bọc trong đống chất nhầy này, cuối cùng bị tiêu hóa. Cây ăn thịt gai Điểm hấp dẫn của loài cây này là những giọt nước đẹp mắt ở đầu tua của nó. Đây chính là chiếc bẫy mà khi con mồi rơi vào “vùng nguy hiểm”, nó sẽ bị tóm gọn trong chưa đầy 1 giây. Cây Bladderwort Loài cây này hiện có hơn 200 phân loài khác nhau, môi trường chủ yếu là dưới nước hoặc các vùng đất ngập nước. Chúng có các bong bóng nhỏ trên lá và đây là bẫy của chúng. Khi giăng bẫy, nhiều tuyến tua trên cây sẽ tạo thành một chiếc “túi”, bên trong liên tục bơm nước ra ngoài nhằm tạo áp lực. Khi con mồi đi ngang, các tua đó sẽ phát hiện và tạo áp lực hút con mồi vào bên trong. Các chất tiêu hóa ngay lập tức tiết ra, giết chết và tiêu hóa con mồi. Theo thống kê, cây Bladderwort có thể bắt 1000 con mồi/ngày. Cây bắt ruồi Venus flytrap Có tên khoa học là Dionaea muscipula, đây là loài cây ăn thịt côn trùng mọc phổ biến ở những vùng lầy lội thuộc Bắc và Nam Carolina, Mỹ. Loài cây này có màu đỏ sặc sỡ, gồm hai mảnh và trên mép lá có chứa các gai nhọn. Khi côn trùng, chủ yếu thuộc lớp nhện “lạc” vào, hai nắp ngay lập tức khép lại khiến con mồi không thể thoát ra. Tiếp đó, các chất tiêu hóa sẽ ngay lập tức tiết ra giết chết con mồi và phân hủy nó, tạo thành chất dinh dưỡng cho cây. Khi tiêu hóa hết, chiếc lá này sẽ mở ra để “đón chào” con mồi mới. Cây ăn thịt lai Mới đây, chuyên gia thực vật người Mỹ Matthew Kaelin đã thành công trong việc tạo ra một loài cây ăn thịt mới trên cơ sở lai tạo hai giống cây nắp ấm khác nhau. Theo mô tả, giống cây ăn thịt mới này cao khoảng 6 inches 15,24cm, thân có những vằn vàng, đỏ điểm đốm đen. Với hình dạng bên ngoài khá giống các sinh vật ngoài hành tinh, loài cây ăn thịt mới này đã được đặt theo tên của Hans Ruedi Giger – họa sĩ siêu thực nổi tiếng với tạo hình người ngoài hành tinh trong bộ phim Alien. Với tạo hình này, Giger từng giành được giải Oscar danh giá. Phát hiện cây ăn thịt mới Trang mạng Japan Times đưa tin, một loài cây ăn thịt mới được phát hiện tại quận Aichi, nằm ở bờ biển phía nam của Nhật Bản. Loài cây này thuộc họ gọng vó. Nó có hoa màu tím đỏ. Lúc đầu, người ta cho rằng đây là một biến thể của cây Drosera indica hoa trắng - một loài cây ở Nhật đang có nguy cơ tuyệt chủng, mọc tự nhiên từ Ấn Độ tới Nhật. Tuy nhiên, giáo sư thuộc ngành phân loại thực vật thuộc đại học giáo dục Aichi, Nhật Bản Mikio Watanabe, đồng thời cũng là người phát hiện ra cây này thì khẳng định đây là một loại cây hoàn toàn mới. Lời khẳng định được đưa ra sau khi ông tiến hành phân tích gene. Loài cây ăn thịt mới được phát hiện ở Nhật Bản. Ảnh PopSci Gọi chúng tôi tại 1800 54 54 83 để được khảo sát miễn phí hoặc Liên hệ chúng tôi Các bệnh do côn trùng gây ra đặt những gánh nặng lên sức khỏe và kinh tế của những cá nhân và cả quốc gia. Hàng triệu người bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các bệnh truyền nhiễm gây suy nhược, dị tật, tàn tật như mù mắt. Trên phạm vi toàn quốc, các hệ thống y tế có thể bị quá tải và mất năng suất đáng kể do số lượng nhân viên không thể làm việc hiệu quả. Các công ty kinh doanh thực phẩm đòi hỏi mức độ vệ sinh và sạch sẽ cao, như thực phẩm và dược phẩm, có thể bị thất thoát kinh tế và danh tiếng do sự nhiễm bẩn của các côn trùng. Bằng hành động phối hợp của cộng đồng quốc tế, một số bệnh đặc trưng ở các nước đang phát triển đã giảm xuống rõ rệt. Số ca bị mắc bệnh trùng roi trypanosomia ở người châu Phi đã giảm 90%, và bệnh giun chỉ bạch huyết có thể điều trị ở sáu quốc gia, theo WHO 2015, đang nghiên cứu các lĩnh vực này để kiểm định. Ngoài ra còn có những sự phối hợp hành động nhằm trị các bệnh quan trọng khác ảnh hưởng đến hàng triệu người, như bệnh sốt rét và bệnh Chagas. Tuy nhiên, tính tự mãn đã dẫn đến một số căn bệnh do côn trùng gây ra gần như đã trị được sau đó trở lại với mức độ dữ dội hơn. Sau khi sản xuất và sử dụng trên diện rộng thuốc diệt côn trùng vào giữa thế kỷ 20, một số bệnh là đối tượng điều trị trong các chương trình kiểm soát đã đạt thành công lớn. Khi nguy cơ đã giảm, các chương trình được chấm dứt, chuyên môn bị mất, và cơ sở hạ tầng biến mất. Các căn bệnh đã xuất hiện trở lại thành dịch và cần có sự hợp tác của nhiều cơ quan trên cộng đồng quốc tế để khởi động lại các chương trình kiểm soát. Điều này cho thấy sự theo dõi liên tục và bồi dưỡng kỹ năng về y tế, côn trùng học, kiểm soát sinh vật truyền bệnh, là điều quan trọng. Với sự biến đổi khí hậu và môi trường do con người gây ra nhanh chóng các bệnh mới cũng đang thịnh hành. Chẳng hạn, các ca mắc bệnh sốt xuất huyết đã nhân lên gấp 30 lần trong năm thập niên qua vì quá trình đô thị hóa lan sang các nước đang phát triển. Một số bệnh đang được phát hiện ở một số nơi trước đây cách ly khỏi các sinh vật mang mầm bệnh do biên giới vật lý và khí hậu vì các sinh vật mang mầm bệnh được mang đi khắp thế giới thông qua con đường thương mại, di cư và du lịch, tạo ra chỗ đứng ở các vùng đất mới. Chẳng hạn, Muỗi vằn, Aedes albopictus, là loài sinh sản nhiều trong môi trường nhân tạo và là sinh vật mang mầm bệnh của một số bệnh như sốt xuất huyết, sốt Tây sông Nile và viêm não Nhật bản. Nó lan rộng mạnh ra ngoài khu vực địa lý tự nhiên ở Đông và Nam Á. Hiện nay muỗi có mặt ở phía Bắc và Nam Mỹ, châu Phi, Úc và các khu vực phía nam châu Âu, vì nó được lây lan do thương mại vỏ xe cũ. Muỗi được IUCN phân loại là một trong những Loài Ngoại lai Xâm nhập Nặng nề nhất thế giới. Năm 2015 Úc báo cáo ca đầu tiên mắc bệnh sốt Tây sông Nile, và bệnh còn được báo cáo tại Ý, Bulgaria, và Romania, Israel và Serbia. Muỗi vằn là một trong những loài mang mầm bệnh được theo dõi bởi dự án VectorNet của Trung tâm Đề phòng và Kiểm soát Bệnh châu Âu. Ảnh hưởng của nhiều bệnh ở các nước nhiệt đới và đang phát triển thì ai cũng biết, nhưng số bệnh có ảnh hưởng đáng kể đến các nước phát triển và các nước khác đang tăng lên do biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, bệnh hen suyễn, là một phản ứng dị ứng với một loại phân tử cực nhỏ, như mạt bụi nhà và gián, theo ước tính của WHO năm 2006, ảnh hưởng 300 triệu người trên thế giới. Tại Mỹ và một số quốc gia khác, nó là nguyên nhân hàng đầu của việc trẻ em phải nhập viện. Do đó, bệnh do côn trùng gây ra có ảnh hưởng chính đến con người, các dịch vụ y tế và nền kinh tế của các nước đang phát triển và phát triển. Sự truyền bệnh Các bệnh do côn trùng gây ra có thể được truyền chủ động hay bị động qua hai con đường Sinh học sinh vật gây bệnh được mang đi trong cơ thể động vật, tại đây chúng nhân lên, sinh sản hay truyền thông qua một giai đoạn trong vòng đời của nó, trước khi được đưa vào vật chủ mới, thường bằng cách cắn để hút máu. Trong một số trường hợp sinh vật được giải phóng bởi một động vật chân khớp ỉa lên da người hay thông qua các sinh vật bị nghiền và chà xát thành một vết cắn hay vết thương, hay đưa vào miệng, mắt hay muỗi qua tay dơ. cơ học ruồi, gián và bọ mang các sinh vật gây bệnh do tiếp xúc vật lý với chất dơ bẩn, chất thải và vật liệu bị nhiễm bẩn hay ăn các vật này. Sau đó, sinh vật được mang đi bị động qua phân, nhai lại, hay mang sinh vật đó đi bên ngoài cơ thể của chúng đến các bề mặt và thực phẩm trong môi trường của con người. Gián và ruồi nhà, thường gặp quanh môi trường sống của con người, không cắn nhưng có thể là vật mang bệnh cơ học của nhiều vi khuẩn gây bệnh, nấm như mốc meo, giun sán, sinh vật đơn bào và vi rút. Đặc biệt ở các nước phát triển chúng có thể xuất hiện với số lượng lớn ở các bệnh viện, cửa hàng thực phẩm, nhà, chuồng gia súc và nhà hàng, và là sinh vật mang mầm bệnh chính của bệnh tiêu chảy và các sinh vật gây bệnh lỵ như các loài khuẩn Salmonella và Shigella, gồm các dòng khác thuốc. Bệnh dịch hạch Côn trùng Ve chuột phương Đông Sinh vật vi khuẩn, Yersinia pestis Vi khuẩn gây bệnh dịch hạch có thể được truyền sang người bằng một số con đường Vết cắn của bọ chét; Xử lý động vật bị nhiễm bẩn hay các bộ phận cơ thể và chất lỏng khác; như đất và các bề mặt bị nhiễm bẩn; các phân tử bị nhiễm bệnh sinh ra trong không khí, từ người bị bệnh ho hay sản phẩm bị nhiễm. Chuột là loài mang bệnh chính trong các trận dịch nổi tiếng trong lịch sử trong thời trung cổ đã giết chết hàng triệu người, khi nó được truyền qua các con đường thương mại trên đất liền và trên biển. Ngày nay, bệnh dịch hạch xuất hiện với tỉ lệ thấp ở nhiều loài vật có vú và loài ăn thịt ở một số vùng thuộc châu Á, Nam Mỹ và Mỹ. Có ba loại bệnh dịch hạch, phân biệt theo con đường mắc bệnh bệnh dịch hạch thể hạch dấu hiệu thường gặp nhất là các sưng và đau hạch bạch huyết bệnh sưng bạch hạch, tại đây vi khuẩn nhân lên và có thể lây nếu không chữa trị. Ngoài ra còn có hiện tượng sốt đột ngột và suy yếu. bệnh dịch hạch gây nhiễm trùng huyết triệu chứng sốt, suy yếu trầm trọng, tiêu chảy, mê sảng, đau bụng, sốc và chảy máu ở da và các cơ quan khác. Da và các mô khác có thể ngã màu đen và chết nhất là trên vây, ngón chân và mũi. bệnh dịch hạch viêm phổi triệu chứng sốt, sốc và viêm phổi, gây khó thở, đau ngực, ho và màng nhầy bị chảy máu. Bệnh dịch hạch có thể trị bằng thuốc kháng sinh. Đối với bệnh dịch hạch thể hạch, có thể tử vong trong vòng dưới hai tuần, đối với bệnh dịch hạch gây nhiễm trùng huyết, có thể tử vong trước khi các triệu chứng xuất hiện, và đối với bệnh dịch hạch viêm phổi tất cả các bệnh nhân không được điều trị đều chết. Bệnh Chagas Côn trùng Bọ sát thủ/ bọ xít hút máu Sinh vật sinh vật đơn bào Trypanosoma cruzi Bệnh Chagas còn gọi là American trypanosomiasis bệnh do đơn bào trypanosomia Mỹ gây ra. Có 150 loài bọ và hơn 100 loài vật có vú mang ký sinh trùng đơn bào. WHO xếp nó là bệnh nhiệt đới bị lãng quên, với 8 triệu người bị nhiễm, chủ yếu ở Trung và Nam Mỹ, và ước tính ca tử vong do di chứng của bệnh. Cả con trưởng thành và nhộng, con cái và con đực, đều là loài hút máu và do đó tìm vật chủ là con người để hút máu, nhất là ở các vùng lộ thiên như mặt. Tuy nhiên, chúng mang ký sinh trùng trong phân được thải lên da sau khi cắn. Khi một người vô tình lau da bị nhiễm bẩn của mình, có thể mang sinh vật đơn bào vào vết cắn, các da bị rách khác, hay mắt và miệng. Bệnh có thể lây qua con đường truyền máu, cấy ghép cơ quan, và ăn thực phẩm bị nhiễm ký sinh trùng. Các triệu chứng thường bắt đầu bằng sốt nhẹ, sưng hạch bạch huyết, nhức đầu, sưng cục bộ ở vị trí vết cắn, sau đó có thể biến mất. Tuy nhiên, 30 đến 40% số người phát các triệu chứng khác trong từ 10 đến 30 năm kể từ ngày nhiễm bệnh lần đầu, gồm phì đại tâm thất, suy tim, phì đại thực quản hay sưng ruột kết. Bệnh sốt xuất huyết Côn trùng Muỗi Sinh vật Vi rút sốt xuất huyết Sốt xuất huyết là bệnh vi rút do muỗi gây ra quan trọng nhất trên thế giới, theo WHO, cho rằng bệnh là một trong 17 Bệnh Nhiệt đới Bị thờ ơ để thực hiện các chiến dịch về ý thức và điều trị. Bệnh lây lan ở trên 100 quốc gia ở vùng nhiệt đới, từ miền Trung và Nam Mỹ, châu Phi, Nam và Đông Nam Á và đến các vùng đảo Thái bình dương. Bệnh tăng nhanh trong vài thập niên qua ở các vùng phát triển đô thị, tạo ra điều kiện lý tưởng cho chúng sinh sản. WHO ước tính có 50-100 triệu ca mắc bệnh sốt xuất huyết mỗi năm và nửa số dân thế giới sống ở các quốc gia bị nhiễm bệnh. Nguy cơ mắc bệnh sốt xuất huyết cao hơn các trận bùng phát hiện nay vì các vật truyền bệnh của muỗi xuất hiện ở khu vực địa lý rộng hơn, và nhất là Muỗi vằn, Aedes albopictus, đang mở rộng phạm vi của chúng. Các ca mới đã được báo cáo tại Croatia, Pháp, Đảo Madeira, Florida Mỹ và Yunnan Trung Quốc trong vài năm qua. Đa số các ca mắc bệnh nay không có triệu chứng hay chỉ sốt nhẹ, trong khi khoảng 5% có bệnh nghiêm trọng, biểu hiện là sốt đột ngột 3-14 ngày sau khi nhiễm bệnh, kèm theo nhức đầu, đau nhức cơ, đau khớp và phát ban khắp cơ thể. Không có vắc xin hay biện pháp điều trị nào cho bệnh này. Sốt rét Côn trùng muỗi Sinh vật sinh vật đơn bào, Plasmodium falciparum, P. vivax, P. ovale, P. malariae, P. knowlesi Sốt rét gây ra đến một triệu ca tử vong và ước tính làm cho hơn 200 triệu người trên thế giới mắc bệnh. Bệnh có mặt ở 97 quốc gia chiếm một nửa dân số thế giới. Khoảng 90% số ca tử vong xảy ra ở vùng dưới sa mạc Sahara ở châu Phi, nhất là Nigeria và Cộng hòa Congo. Những người có nguy cơ cao là những người nghèo ở các vùng xa có ít cơ sở y tế, phụ nữ trẻ, mang thai và người mắc HIV. Ký sinh trùng có vòng đời phức tạp, có một số giai đoạn trong muỗi và động vật chủ. Trong cơ thể vật chủ, một dạng có thể sống trong gan lên đến 30 năm và không có triệu chứng; dạng khác phát triển và sinh sản trong các tế bào hồng cầu, gồm ký sinh trùng cái và đực, có thể lây bệnh ở muỗi. Các triệu chứng như sốt, nhức đầu, ói xuất hiện từ 7-15 ngày kể từ khi nhiễm bệnh. Nếu không điều trị, P. falciparum có thể nhân lên nhanh chóng và làm tắt nghẽn mạch máu nhỏ ở các cơ quan quan trọng kể cả trong não. Các dạng khác ngủ trong gan và có thể tái hoạt động sau nhiều tháng hay năm. Sốt Tây sông Nile Côn trùng Muỗi. Sinh vật Flavivirus, vi rút Tây sông Nile. Bệnh hầu như không xuất hiện ngoài Uganda, nơi phát hiện lần đầu năm 1937, đến thập niên 1990, khi có một đại dịch nổ ra tại Algeria. Hiện tại bệnh có mặt ở tất cả các châu lục có khí hậu ôn đới và nhiệt đới, thậm chí Mỹ cũng bị một trận bùng phát năm 2012 giết chết 286 người, Trung tâm Đề phòng và Kiểm soát Bệnh châu Âu theo dõi các ca nhiễm tại châu Âu và năm 2015 báo cáo tám ca ở người WNF ở Các bang thành viên của EU đến tháng Tám Áo 1, Bulgaria 1, Romania 1 và Áo 1. Tám ca được phát hiện ở các nước láng giềng Israel 7 và Serbia 1. Thậm chí còn có cả một bản đồ tương tác các ca nhiễm bệnh này.. Khoảng 80% số người nhiễm bệnh không có biểu hiện triệu chứng gì. Số còn lại, triệu chứng xuất hiện sau 2-15 ngày, như sốt, nhức đầu, đau nhức toàn thân, đau khớp, ói, tiêu chảy hay phát ban. Đa số mọi người hồi phục hoàn toàn, nhưng có thể yếu trong nhiều tuần hoặc tháng. Một số ít bệnh nhân bị viêm não, viêm màng não hay viêm tủy xám. Không có phương pháp điều trị riêng và không có vắc xin. Sốt vàng da Côn trùng Muỗi Sinh vật Vi rút, Flavivirus Sốt vàng da là một loại sốt xuất huyết có nguồn gốc từ vành đai trung tâm châu Phi nhưng lan sang Nam Mỹ vào thế kỷ 17 do buôn bán nô lệ. Nó lây nhiễm ở 34 quốc gia tại châu Phi, nơi mà tỉ lệ lớn trong khoảng ca tử vong trong số ca nhiễm bệnh trong một năm. Có ba con đường truyền bệnh đô thị, muỗi vằn A aegypti, sinh sản trong nước ngọt trong môi trường sống của người như lon, thùng nước, máng xối, Đây là con đường lây truyền chính tại châu Phi; rừng, chủ yếu do muỗi A. africanus, A. bromeliae, lây khi khỉ là vật chủ. Đây là con đường lây truyền chính ở Nam Mỹ; và một trung gian hay kiểu 'savannah', đã trở nên thịnh hành hơn ở châu Phi gần đây. Các triệu chứng biểu hiện 3-6 ngày sau khi nhiễm bệnh, như sốt, nhức đầu, đau lưng, đau cơ nói chung, buồn nôn, và ói mửa. Khoảng 15% số ca phát triển sang giai đoạn cấp tính, độc kèm theo sốt vàng da do hư gan và các dấu hiệu xuất huyết - chảy máu miệng, mắt, muỗi và hệ dạ dày-ruột bị 'nôn có lẫn máu'. Giai đoạn này gây tử vong cho bệnh nhân từ 20% trở lên. Có vắc xin an toàn và bảo vệ ít nhất 10 năm. Bệnh nhiễm khuẩn do ve gây ra Sinh vật mang bệnh ve hươu Sinh vật vi khuẩn, loài Borrelia, Borrelia burgdorferi sensu lato Bệnh nhiễm khuẩn do ve gây ra là bệnh do ve gây ra thường gặp nhất ở bắc bán cầu, do nhiều loài vật có vú lây truyền khi ve hút máu trở thành ổ bệnh. Số ca nhiễm được báo cáo là 7,9 ca trên dân tại Mỹ WHO và có trên ca được báo cáo tại Anh và Wales hàng năm. Triệu chứng của bệnh gồm phát ban hồng hay đỏ, trong đa số các trường hợp có chấm đỏ ở giữa và vòng đỏ bên ngoài - như 'mắt bò'; nhiệt độ 380C/100,40F trở lên; các triệu chứng như cảm cúm gồm nhức đầu và đau khớp; hạch bạch huyết sưng. Có thể điều trị bệnh bằng kháng sinh, nhưng nếu không điều trị được, các triệu chứng có thể kéo dài nhiều năm, gồm viêm khớp, tê liệt, bại liệt và khoảng 10% người bị nhiễm bệnh phát triển bệnh liên quan đến hệ thần kinh trung ương. Số cấp tính do ve cắn Có hai loại sốt cấp tính do ve cắn Sốt cấp tính do ve Colorado Côn trùng Ve gỗ Rocky Mountain Dermacentor anderson. Sinh vật vi rút, Coltivirus Sốt cấp tính do ve Colorado gần như chỉ xảy ra ở các vùng núi phía Tây nước Mỹ và Canada. Các triệu chứng gồm sốt, nhức đầu, đau sau mắt, nhạy cảm với ánh sáng, đau cơ, buồn nôn và ói. Cách chữa trị có tính chất triệu chứng nhằm giảm sốt và đau. Sốt cấp tính do ve châu Phi Côn trùng ve họ Amblyomma, Dermacentor và Rhipicephalus. Sinh vật vi khuẩn, Rickettsia africae.. Sốt cấp tính do ve châu Phi là một trong những bệnh nhiễm Rickettsia và thường xảy ra ở khu vực cận sa mạc Sahara châu Phi và Tây Indies. Giai đoạn ủ bệnh thường từ 5 đến 7 ngày, các triệu chứng gồm sốt, nhức đầu, đau cơ, phát ban trên da và có vùng đen ngay vết cắn. Không có vắc xin để phòng bệnh nhưng có thể trị bằng thuốc kháng sinh. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ US CDC báo cáo bệnh là nguyên nhân sốt ở những người đi du lịch đến Nam Phi. Bệnh suyễn Côn trùng Mạt bụi nhà & Gián. Sinh vật không biết phản ứng dị ứng. Bệnh suyễn không do một loại sinh vật truyền nhiễm nhưng do một phản ứng dị ứng đối với các phân tử có sinh vật trú ẩn, chủ yếu là mạt bụi nhà và gián. Do đó nó không thuộc loại bệnh do sinh vật mang mầm bệnh gây ra. Tuy nhiên, bệnh có tầm quan trọng đối với sức khỏe và nền kinh tế của các nước phát triển. Nó là một trong những bệnh mãn tính phổ biến nhất ở trẻ em và tại Mỹ là nguyên nhân hàng đầu của các ca nhập viện ở trẻ em. WHO ước tính 300 triệu người mắc bệnh suyễn trên thế giới, từ 1% ở vùng nông thôn châu Phi đến 7-20% ở châu Âu và 25-40% ở một số thành phố Mỹ và Úc. Nguyên nhân chính là mạt bụi nhà, là động vật thuộc lớp nhện dài dưới 1 mm chủ yếu ăn lớp sừng trên da người. Phấn hoa, bào tử vi sinh vật, sợi nấm và vi khuẩn cũng thấy trong gan của mạt bụi nhà. Chúng sống ở các nơi nhỏ hẹp của tấm thảm, thảm chân, chăn lông vịt, gối và vật liệu bàn ghế, tự nhiên hay tổng hợp, vì cả hai đều là nơi trú ẩn lý tưởng. Rận phụ thuộc vào độ ẩm tương đối và nhiệt độ thích hợp để sống, do đó cần kiểm soát nhiệt, thông gió và độ ẩm ở những nơi chúng cư trú ảnh hưởng đến số lượng của chúng. Điều kiện tối ưu là 250C và độ ẩm tương đối 75%, tạo điều kiện trứng phát triển thành con trưởng thành trong khoảng 25 ngày. D. farina có thể sống trong điều kiện độ ẩm thấp bằng cách tạo ra một giai đoạn 'thiếu trùng' có thể chịu hạn. Rận là loài thường gặp nhất ở các vùng có thời tiết khô hạn kéo dài như Mỹ. Ở các vùng có độ ẩm cao hơn D. pteronyssinus và E. maynei phổ biến nhất. Gián Đức là loài gián gây hại chính, cư trú ở nhà của con người ở tất cả châu lục trừ Nam Cực, nhưng cần môi trường của nhà hay tàu để sống sót trong thời tiết lạnh. Nó xuất hiện nhiều ở nhà hàng, khách sạn, bệnh viện, nhà dưỡng lão và các cơ sở chế biến thực phẩm. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng tiếp xúc với các chất gây dị ứng của gián có liên quan đến bệnh suyễn. Một số nghiên cứu tại Mỹ cho thấy, một tỉ lệ cao số người mắc bệnh suyễn nhạy cảm với gián, nhất là tại các khu vực đô thị, cho thấy sự ưa thích của loài dịch hại này ngay cả ở Mỹ. Bệnh trùng mũi khoan châu Phi Côn trùng Ruồi xê xê, ruồi trâu, họ Ruồi trâu Sinh vật sinh vật đơn bào, Trypanosoma brucei, chi gambiense và rhodesiense Còn được gọi là bệnh ngủ, bệnh này chỉ tìm thấy ở vùng nông thôn châu Phi, ảnh hưởng chủ yếu đến các cộng đồng nông thôn nghèo. Bệnh được kiểm soát vào thập niên 1960 nhưng tái diễn vào thập niên 1970 khi các biện pháp kiểm soát bị buông lỏng. Số người mắc bệnh đã giảm đáng kể trong 20 năm qua từ con số ước tính xuống dưới theo WHO, do các chiến dịch kiểm soát bệnh. Vào tháng 5/2015, WHO báo cáo rằng số ca đã giảm còn mức thấp nhất trong 75 năm. Các nỗ lực kiểm soát vẫn phải tầm soát 2-3 triệu người mỗi năm ở các trung tâm y tế địa phương. Ruồi xê xê sống ở trong vùng rừng và thảm thực vật. Cả ruồi đực và cái đều hút máu và tìm một bữa ăn vào ban ngày. Các hồ trong nhà và động vật hoang dã đóng vai trò chính trong việc truyền bệnh. Có hai chi ký sinh trùng ở các vùng tại châu Phi - bệnh trùng mũi khoan Đông Phi và bệnh trùng mũi khoan Tây Phi. Khi nó đi vào vật chủ là con người, sinh vật đơn bào sẽ tuần hoàn trước và nhân lên trong máu và hệ bạch huyết, gây ra các triệu chứng như sốt, sưng hạch bạch huyết và ngứa da. Sau đó chúng còn xâm nhập não và hệ thần kinh trung ương, gây nhức đầu, chóng mặt và đau bụng. Bệnh còn dẫn đến tử vong nếu không điều trị. Nhiễm trùng đường ruột Côn trùng gián, ruồi Sinh vật sinh vật đơn bào, Etomoebo histolytica Côn trùng là sinh vật mang bệnh nhiễm trùng đường ruột qua đường cơ học của sinh vật đơn bào do tiếp xúc trực tiếp với phân người hay các sản phẩm và bề mặt nhiễm bẩn. Ước tính có khoảng 50 triệu người bị nhiễm bệnh trên thế giới, nhưng đa số các trường hợp là không có triệu chứng bệnh, chỉ 10% có triệu chứng bệnh. Bệnh gây tiêu chảy ra máu, giảm cân, mệt mỏi và đau bụng. Sinh vật có thể xâm nhập thành ruột, tạo ra loét. Sau đó nó có thể đi qua dòng máu và vào các cơ quan khác, nhất là gan. Bệnh than Côn trùng ruồi trâu, ruồi nai, ruồi nhà, ruồi xanh, muỗi. Sinh vật vi khuẩn, Bacillus anthrax. Nhiều loài côn trùng cắn và không cắn bị buộc tội lây bệnh than trong các trận dịch bệnh và được cho rằng đã lây lan trong những điều kiện đã kiểm soát. Bệnh có thể xảy ra trực tiếp khi lây vi khuẩn từ một động vật này sang động vật khác hay ăn xác chết sau đó ỉa hay ói trên cây, sau đó động vật ăn cỏ gặm cây. Giai đoạn bào tử ngủ của bệnh than có thể kéo dài hàng chục năm trong đất, cho đến khi động vật ăn cỏ tiêu hóa hay hít vào, và sau đó hoạt động trở lại trong điều kiện thích hợp trong vật chủ. Người bị nhiễm bệnh than qua ba con đường Phổi — hít bào tử chủ yếu từ động vật bị nhiễm bệnh và các sản phẩm động vật khác. Triệu chứng bắt đầu giống như cảm cúm sau đó là viêm phổi và đau đường hô hấp trong vài ngày. Bằng cách điều trị, tỉ lệ tử vong khoảng 45% trong năm 2001 bệnh than tấn công nước Mỹ khi gửi bào tử qua đường bưu điện. Dạ dày-ruột — ăn thịt bị nhiễm bệnh, gây tiêu chảy nghiêm trọng, viêm đường ruột cấp tính, ói ra máu. Tỉ lệ tử vong là 25-60%. Da — bào tử xâm nhập qua các vết đứt trên da khi xử lý động vật bị nhiễm hay sản phẩm động vật bị nhiễm bệnh, gây loét da. Không điều trị thì tỉ lệ tử vong là khoảng 20%. Nhiễm trùng máu do ve bét Côn trùng ve Sinh vật sinh vật đơn bào, loài bobesio. Nhiễm trùng máu do ve bét là không phổ biến nhưng bệnh xuất hiện do một số loài sinh vật đơn bào bobesia gây ra. Các sinh vật mang bệnh chính gồm ve thuộc giống Ixodes, nhưng nhiều loài chuột đồng và chấy hay hươu buộc phải là vật chủ trung gian để chúng hoàn thành vòng đời. Đã từ lâu chúng được biết đến là tấn công gia súc và chỉ bị phát hiện ở người vào thập niên 1950. Bệnh xảy ra chủ yếu ở vùng Đông bắc Mỹ và các vùng ôn đới của châu Âu. Trong đa số các trường hợp, không có triệu chứng gì hoặc triệu chứng như bị cảm cúm nhẹ, những người có hệ miễn dịch suy yếu, bệnh có thể trở nên nghiêm trọng hơn và thậm chí gây tử vong. Bệnh do khuẩn Bartonella gây ra Côn trùng bọ chét, rận, ruồi cát, ve, muỗi. Sinh vật vi khuẩn, loài Bartonella Loài vi khuẩn Bartonella gây một số bệnh như Sốt chiến hào Do B. Quintana gây ra, bệnh do rận lây lan. Nó nổi tiếng là ảnh hưởng đến một số lượng lớn lính trong Thế chiến thứ nhất - trên một phần năm lính Anh, Đức và Áo được báo cáo mắc bệnh sốt chiến hào. Bệnh có mặt trên khắp thế giới, có các ca được báo cáo ở châu Âu, Bắc Mỹ, châu Phi và Trung quốc. Các triệu chứng gồm sốt, nhức đầu, phát ban, và đau nhức xương, chủ yếu trên cẳng chân, cổ và lưng. Bệnh mèo cào Bệnh gây ra do một số loài Bartonella và tên của bệnh gợi lên một điều là bệnh có thể truyền qua vết cào của mèo đã bị bọ chét trên mèo mang vi khuẩn gây ra. Thường gặp nhất ở mèo con và trẻ em. Các triệu chứng gồm viêm tim viêm màng trong tim, viêm cơ tim và bệnh về mắt viêm dây thần kinh thị giác. Người ta còn cho rằng bệnh do vết cắn của bọ chét hay ve gây ra. Bệnh do ruồi cát gây ra Giới hạn ở các độ cao ở Miền tây nam Mỹ, bệnh lây qua các vết cắn của ruồi cát Lutzomyia. Bệnh có hai giai đoạn rõ rệt, sốt gọi là sốt Oroya ban đầu người ta nghĩ là một bệnh riêng, và nhiễm trùng da có xu hướng chảy máu. Bệnh được đặt tên theo một sinh viên y khoa Peru, chính anh đã tự làm cho mình nhiễm bệnh năm 1885 để theo dõi tiến triển và cuối cùng đã chết. Bệnh sốt Chikunguya Côn trùng muỗi Sinh vật vi rút, vi rút Chikunguya. Sốt Chikunguya xuất hiện thành một dải rộng các vùng nhiệt đới từ duyên hải Atlantic thuộc châu Phi đến Papua New Guinea ở tây Thái bình dương. Các ca mắc bệnh này còn được báo cáo ở Nam và Trung Mỹ, Hoa Kỳ, Nam Âu. Nhiều triệu chứng như sốt, đau khớp nặng trong vài tuần, phát ban da, đau cơ, nhức đầu, mệt mỏi. Hầu hết bệnh nhân phục hồi nhưng đau khớp có thể kéo dài vài tháng hay năm. Không có vắc xin hay cách điều trị riêng. Nó tương tự như sốt xuất huyết về sinh vật mang bệnh, triệu chứng, trừ đau khớp và khu vực địa lý. Bệnh dịch tả Côn trùng Ruồi nhà, Ruồi xanh, Nhặng Sinh vật vi khuẩn, Vibrio cholera. . Bệnh dịch tả là bệnh do vệ sinh kém, cái nghèo và sự mâu thuẫn, gây ra do tiêu hóa thực phẩm và nước bị nhiễm phân. Côn trùng đóng vai trò trong việc lây bệnh bằng cách mang vi khuẩn từ phân bị nhiễm và các sản phẩm bị nhiễm bẩn khắp môi trường sống của con người. Giai đoạn ủ bệnh là một đến năm ngày, sau đó vi khuẩn sản sinh ra một độc tố có thể gây tiêu chảy nước và ói nhiều dẫn đến mất nước trầm trọng và chết nếu không được điều trị - 25-50% các ca nặng tử vong. Vắc xin hiện có và đã được sử dụng thành công bởi WHO nhằm kiểm soát bùng phát bệnh trong những năm gần đây, với 2 triệu liều được phân phát từ năm 2013, chủ yếu ở các vùng có nhiều mâu thuẫn của châu Phi. Châu Phi nhìn chung chiếm trên 90% số ca mắc bệnh, có một trường hợp ngoại lệ bùng phát tại Haiti và các nước láng giềng sau trận động đất 2010, khi số ca trên toàn cầu đạt đỉnh gần năm 2011. Theo WHO, 80% số ca mắc bệnh dịch tả có thể được điều trị bằng cách sử dụng muốn tái cấp nước qua đường uống, tuy nhiên 748 triệu người thiếu nước sạch năm 2012 và 45 quốc gia đang bị lùi lại đằng sau trong việc cải thiện nguồn nước cấp. Sốt xuất huyết Crimean-Congo Côn trùng ve Sinh vật vi rút, Nairovirus Vi rút được truyền sang người bằng vết cắn của ve hay tiếp xúc với máu hay mô của động vật bị nhiễm bệnh, có thể là trâu bò, cừu hay dê. Ve Hyaloma marinatum lây lan khắp miền Bắc Phi và châu Á và có mặt ở Nam và Đông Âu. Bệnh được lây lan chủ yếu thông qua chim di cư và gia súc. Vi rút gây bệnh tại châu Phi, Trung Đông và Balkans, Tây và Nam Á và được xem là mầm bệnh mới ở châu Âu, nơi có những ca mới ở một số nước và phát hiện ra kháng thể vi rút ở các nước khác, theo Trung tâm Ngăn ngừa và Kiểm soát Bệnh châu Âu. Các triệu chứng gồm sốt, đau cơ, chóng mặt, đau cổ, đau lưng, đau đầu, đau mắt, nhạy cảm với ánh sáng, ói, tiêu chảy. Tỉ lệ tử vong là 5-40% và không có phương pháp điều trị hợp lệ và không có vắc xin an toàn nào. Sốt hồi quy Côn trùng Ve & Chấy Sinh vật vi khuẩn, loài Borrelia Sốt hồi quy biểu hiện bằng những cơn sốt kéo dài vài ngày sau đó là một giai đoạn không có sốt lâu hơn khoảng bảy ngày. Kèm theo đau toàn thân, đau cơ, đau khớp, nhức đầu, buồn nôn, ói, biếng ăn, ho khan, nhạy cảm với ánh sáng, phát ban, đau cổ, đau mắt, bối rối và chóng mặt. Sốt do chấy gây ra là do vi khuẩn Borrelia recurrentis gây ra và chỉ lây từ người sang người. Bệnh bùng phát chủ yếu ở các vùng có điều kiện sống tồi, đói và mâu thuẫn - hiện tại Ethiopia và Sudan. Bệnh gây sốt vàng da, xuất huyết nặng, ảnh hưởng thần kinh và bệnh về tim. Bệnh xuất hiện do đè nát chấy hay chà xát da nơi chấy ăn và bỏ phân và mang vi khuẩn đến các vết thương và màng nhầy. Sốt do chấy gây ra nghiêm trọng hơn, có tỉ lệ tử vong 30-70% nếu không điều trị và 1% có điều trị. Sốt do ve gây ra xuất hiện ở châu Phi, Tây Ban Nha, Ả rập Saudi, châu Á, Canada, Mỹ. Mỗi loài ve có xu hướng mang một loài vi khuẩn Borrelia riêng và xuất hiện ở các nơi cư trú khác nhau, sử dụng một số loài vật nhỏ làm vật chủ ổ bệnh. Ve có thể có tuổi thọ trên 10 năm do đó các cuộc xâm nhập vào các căn nhà có thể vẫn còn trong nhiều năm. Sốt do trùng chấy rận gây ra Côn trùng chấy rận. Sinh vật vi khuẩn, Rickettsia prowazekii Cũng như các bệnh sốt do chấy rận sinh ra khác, sốt do trùng chấy rận xuất hiện trong các điều kiện quá đông dân cư và vệ sinh kém như trong trại tập trung và nhà tù. Chủ yếu bệnh xuất hiện ở Trung và Nam Phi, Trung và Nam Mỹ, và châu Á. Các trận bùng phát dịch đã xảy ra ở Burundi, Ethiopia và Rwanda. Bệnh lây nhiễm do nghiền chấy rận hay chà xát da nơi chấy rận ăn và thải phân và mang theo vi khuẩn vào các vết thương và màng nhầy. Một số ca ở Mỹ do các loài sóc bay làm tổ trong nhà qua mùa đông, nhưng phương tiện lây nhiễm vẫn chưa được biết vì bệnh nhân không có chấy rận. Bệnh nhân có thể bị sốt cao, nhức đầu, đau cơ nặng và sau 5-6 ngày bị phát ban có đốm đen. Bệnh Ehrlichia Côn trùng Ve Sinh vật Vi khuẩn, loài Ehrlichia, Anaplasma phagocytophilum va Meorickettsia sennetsu. Bệnh Ehrlichia là tên gọi chung được dùng để mô tả một số bệnh nhiễm vi khuẩn tấn công bạch cầu. Các loại bệnh này chỉ xuất hiện ở các khu vực ở Mỹ, có các loài vi khuẩn khác nhau ở các khu vực địa lý đặc trưng. Tuy nhiên, người ta biết rất ít về bệnh này. Các triệu chứng xuất hiện khoảng 14 ngày sau khi bị nhiễm bệnh và chu kỳ 12 giờ. Có thể là nhức đầu, đau cơ, mệt mỏi, buồn nôn, ói, tiêu chảy, và đôi khi phát ban, nhưng các triệu chứng khác nhau. Viêm não Nhật bản Côn trùng Muỗi Sinh vật Flavivirus, virus viêm não Nhật bản. Viêm não Nhật bản xảy ra chủ yếu ở các vùng nông thôn miền Đông, Đông Nam và Nam Á. Tỉ lệ mắc bệnh có liên quan đến mùa mưa và lũ lụt trên đồng ruộng. Các vật chủ chính của vi rút này là heo và chim lội, con người là vật chủ ngẫu nhiên hiếm khi truyền bệnh qua các vết cắn khác. Nó có liên quan chặt chẽ với vi rút Tây sông Nile và vi rút viêm não St. Louis. Đa số các trường hợp nhiễm bệnh không biểu hiện triệu chứng gì, nhưng ở một số trường hợp, nhất là trẻ em, vi rút xâm nhập não và các triệu chứng sốt cao và nhức đầu bắt đầu biểu hiện sau từ 5-15 ngày. Triệu chứng này phát triển thành rùng mình, và co giật. Không có phương pháp điều trị nào nhưng có vắc xin. Bệnh rừng Kyansur Côn trùng ve. Sinh vật Flavivirus, vi rút gây bệnh rừng Kyansur Bệnh chỉ có ở Nam Ấn độ, nơi có 4-500 ca mỗi năm, măc dù người ta tưởng các bệnh sốt tương tự ở Nga viêm não xuân-hè Nga và sốt xuất huyết Omsk. Bệnh ở người có thể xảy ra do vết cắn của ve hay do tiếp xúc với các loài gặm nhấm nhỏ và nhất là khỉ, được phát hiện năm 1957. Các triệu chứng gồm sốt cao, nhức đầu và các triệu chứng xuất huyết - chảy máu muỗi, họng, lợi và dạ dày-ruột. Có vắc xin nhưng không có biện pháp đặc trị và phải mất nhiều tháng để hồi phục hoàn toàn. Bệnh nhiễm ký sinh trùng Leishmania Côn trùng Ruồi cát Sinh vật sinh vật đơn bào, loài Leishmania Bệnh nhiễm ký sinh trùng Leishmania lây qua vết cắn của ruồi cát cái. Chúng là loài ruồi rất nhỏ dài 1,5-3,0 mm có đội mắt đen to và cơ thể, cánh và chân đầy lông. Chúng sinh sản ở các khu vực trong rừng, hang và nhà gạch sống, nơi mà đa số bệnh lây nhiễm sang con người xảy ra. Loài gặm nhấm, chó và các loài có vú khác là ổ bệnh. Có hơn 20 loài sinh vật đơn bào, gây ra một số dạng bệnh da, chất nhầy và phủ tạng, gây ra sự khác biệt, đau da, loét mãn tính, viêm chất nhầy, và lá lách, gan, tủy xương và hạch bạch huyết. Bệnh xuất hiện ở nhiều nước trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, có nhiều dạng khác nhau phổ biến hơn ở một số nước, mặc dù Brazil là nguồn chính của ba dạng này. WHO ước tính có 310 triệu người có nguy cư mắc bệnh. Có ca mắc bệnh nhiễm Leishmania phủ tạng và trên ca tử vong mỗi năm, trong khi có 1 triệu ca nhiễm bệnh ở da được báo cáo trong thời gian năm năm đến 2012. Vết cắn để lại một quầng đỏ không sưng và các triệu chứng bệnh gồm sốt và thiếu máu. Bệnh giun chỉ bạch huyết Côn trùng Muỗi Sinh vật giun tròn, Wuchereria bancrofti 90%, Brugia malyi, B. timori Giun ký sinh trưởng thành chỉ sống trong hệ bạch huyết của người và lây từ người này sang người khác do vết cắn của muỗi. Nó ảnh hưởng đến hơn 120 triệu người, theo WHO, trong đó 40 triệu bị biến dạng hay mất năng lực, gồm 25 triệu người nam bị bệnh về bộ phận sinh dục. Bệnh dẫn đến nhiều người bị đau lâu dài, mất năng suất lao động - cho gia đình và nền kinh tế - và bị loại ra khỏi xã hội. Giun có thể sống trong cơ thể nhiều năm mà không biểu hiện triệu chứng gì, phá hoại từ từ hệ bạch huyết, thận và hệ miễn dịch khi chúng đẻ hàng triệu ấu trùng trong suốt vòng đời 6-8 năm. Các triệu chứng trầm trọng nhất thường thấy ở người lớn, phổ biến hơn ở nam giới, gây viêm mô bệnh chân voi ở cánh tay, chân, bộ phận sinh dục và hệ bạch huyết sưng phù. Có thuốc diệt ký sinh trùng trong dòng máu, do đó bệnh có thể trị bằng chiến dịch phối hợp. Bệnh Rickettsia do chuột Côn trùng Bọ chét Sinh vật Vi khuẩn, Rickettsia typhi Bệnh có mặt trên toàn cầu, do bọ chét truyền tấn công chuột và ít gặp hơn do chấy, mèo và thú có túi. Thường gặp ở trong các tòa nhà và khu vực sinh sống bị chuột xâm nhập như trại tập trung. Bệnh được lây truyền do tiếp xúc với phân bọ chét, thông qua các vết thương trên da hay chà xát bàn tay trên các vùng bị nhiễm bệnh sau đó đưa qua màng nhầy và miệng. Các triệu chứng tương tự với bệnh sốt phát ban chấy rận, nhưng kéo dài thời gian ngắn hơn và nhẹ hơn. Triệu chứng như sốt phát ban trong vòng 6 ngày kể từ khi nhiễm bệnh, nhức đầu, sốt, đau cơ và khớp, buồn nôn, ói. Các triệu chứng có thể giống với sởi hay quai bị. Bệnh có thể điều trị bằng kháng sinh. Bệnh giun chỉ/ Bệnh mù lòa đường sông Côn trùng ruồi đen Sinh vật Giun tròn, Onchocerca volvulus Bệnh mù lòa đường sông ảnh hưởng đến 37 triệu người, chủ yếu ở 31 quốc gia châu Phi và Trung và Nam Mỹ. Nó chỉ đe dọa các khu vực nông thôn vùng xa gần các dòng chảy nhanh nơi ruồi đen đẻ trứng. Ký sinh trùng gây ngứa da, viêm hạch sưng háng, phì đại bộ phận sinh dục, hư thị lực nặng, và mù lòa. Ký sinh trùng có vòng đời phức tạp, chỉ sinh sản ở người và có vài giai đoạn ấu trùng trong ruồi đen. Ruồi đen cái tìm bữa ăn máu sau khi giao phối và nếu chúng hút máu người bị bệnh có thể tiêu hóa cả giai đoạn ấu trùng giun chỉ từ trong máu. Ấu trùng giun chỉ sản sinh ra ấu trùng, có ba giai đoạn, giai đoạn cuối di chuyển lên đầu và vòi của ruồi và có thể lây bệnh cho người thông qua nước bọt khi cắn. Ấu trùng di chuyển đến mô dưới da, nơi chúng hình thành bướu nhỏ và trưởng thành thành con trưởng thành trong 6-10 tháng. Con trưởng thành giao phối và con cái phát triển giai đoạn ấu trùng giun chỉ, sau đó ruồi đen sẽ tiêu hóa khi ăn. Giun tròn trưởng thành có thể lớn đến 50 cm và sống trong các bướu nhỏ trong 15 năm, hình thành giai đoạn ấu trùng giun chỉ trong chín năm. Có biện pháp điều trị để diệt ấu trùng giun chỉ và ngứa da, nhưng không diệt đực giun trưởng thành. Tuy nhiên, CDC đã báo cáo một biện pháp điều trị mới khi sử dụng thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn cộng sinh, Wolbachia, rất quan trọng để ký sinh trùng tồn tại. Sốt ruồi cát Côn trùng Ruồi cát Sinh vật vi rút, kiểu huyết thanh Phlebovirus Có ba loại huyết thanh vi rút Toscana, Sicilian và Naples. Bệnh xuất hiện thành một vành đai quanh Địa trung hải, khắp Trung đông đến bắc Ấn độ và Tây Nam Trung Quốc. Các triệu chứng xuất hiện vài ngày sau khi bị nhiễm bệnh sốt, đau đầu trước nặng và đau cơ và khớp, tim đập nhanh và đỏ mặt, lắng đi sau hai ngày. Bệnh còn được gọi là sốt ba ngày, sốt muỗi cát, và sốt ruồi cát. Không có biện pháp đặc trị. Sốt Q Côn trùng Ve Sinh vật Vi khuẩn, Coxiella burnetii Sốt Q là một bệnh lây lan rộng chủ yếu do bị nhiễm chất tiết ra từ động vật bị nhiễm bệnh như mủ, nước ối, nhau, nước tiểu và phân của trâu bò bị nhiễm bệnh, cừu và dê. Bệnh rất hiếm khi bị nhiễm từ ve. Khoảng một nửa số người mắc bệnh biểu hiện các triệu chứng như sốt cao, đau đầu nặng, buồn nôn, ói, tiêu chảy, đau khớp và cơ, vấn đề với hô hấp. Bệnh có thể được điều trị bằng một loại thuốc kháng sinh. Một số bệnh nhân có thể phát triển các triệu chứng mãn tính nghiêm trọng như viêm phổi, viêm gan và viêm tim, có thể cần điều trị kháng sinh lâu dài. Sốt Rickettsia Côn trùng bọ chét, ve Sinh vật vi khuẩn, loài Rickettsia Rickettsia là một nhóm vi khuẩn nguyên sinh chỉ sống trong các tế bào động vật và phụ thuộc vào các quá trình sinh hóa trong tế bào vật chủ để tồn tại. Chúng được nhiều loài côn trùng và lớp nhện lây lan, như ve, bọ chét, chấy rận. Các loài Rickettsia là nguyên nhân của một số bệnh, gồm các nhóm sốt Rickettsia và sốt phát ban xuất hiện ở nhiều vùng địa lý khác nhau cùng với các loài có liên quan, chẳng hạn Sốt phát ban do chấy rận Rickettsia prowazekii — trên khắp thế giới; Bệnh Ricketssia cho chuột Rickettsia typhi — trên khắp thế giới; Bệnh sốt phát ban Ricky Mountain Rickettsia rickettsii — Bán cầu tây; Sốt ve châu Phi Rickettsia africae — Nam Phi; Sốt ve Siberia Rickettsia sibirica — Siberia, Mongolia, bắc Trung Quốc; Sốt ve chó Rickettsia conorii — các nước Địa trung hải, châu Phi, Tây Nam Á, Ấn độ; Sốt ve Úc Rickettsia australis — Úc; Sốt phát ban do bọ chét gây ra Rickettsia felis — Bắc và Nam Mỹ, Nam Âu, Úc; Sốt phát ban phương Đông Rickettsia japonica — Nhật bản; Sốt phát ban do ve trên chuột gây ra Rickettsia akari — Mỹ, Nga, Ukraine, Nam Phi, Hàn Quốc, các bang Balkan. Các bệnh quan trọng hơn được trình bày thành từng tiêu đề riêng. Sốt phát ban do ve trên chuột gây ra Côn trùng ve trên chuột nhà. Sinh vật vi khuẩn, Rikettsia akari. Người bị nhiễm bệnh thường là do chấy rận chết tự nhiên hay sau khi kiểm soát côn trùng dịch hại khi ve tìm vật chủ mới để hút máu. Bệnh được lây lan do vết cắn của ve. Bệnh được báo cáo tại các vùng thành thị của Ukraine, Nga, Nam Phi, Hàn Quốc, Croatia, Pháp và Mỹ. Sốt phát ban do ve trên chuột gây ra được xem là bệnh nhẹ mất 2-3 tuần để hồi phục. Triệu chứng đầu tiên là sưng quanh vết cắn xuất hiện trong vòng một tuần sau khi bị cắn, sau đó nó biến thành vảy cứng màu đen. Vài ngày sau đó, sốt xuất hiện, tương tự như cảm cúm, có phát ban khắp cơ thể. Sốt phát ban Rocky Mountain Côn trùng Ve chó Mỹ, Ve Gỗ Rocky Mountain Sinh vật vi khuẩn Rickettsia rickettsia Đây là bệnh Rickettsia thường gặp nhất ở Mỹ, mặc dù nó còn xuất hiện trên khắp Bắc, Trung và Nam Mỹ. Các loài gặm nhấm là nơi ủ bệnh, vừa là vật chủ cho ve và là nguồn lây nhiễm cho các giai đoạn chưa trưởng thành của ve. Các triệu chứng sốt phát ban Rocky Mountain thường gặp là sốt, nhức đầu, đau bụng, ói, và đau cơ. Nổi ban trên da, biểu hiện gần giống như các mụn đỏ, có thể còn phát triển sau vài ngày. Bệnh do nhiễm khuẩn Salmonella Côn trùng ruồi nhà, ruồi xanh, ruồi ăn thịt, gián Sinh vật vi khuẩn, Salmonella enterica Vi khuẩn Salmonella có thể được lây lan bởi ruồi và gián cư trú 'dơ bẩn' bằng cách lây cơ học sau khi tiếp xúc với phân bị nhiễm khuẩn từ người hay động vật và sản phẩm nhiễm bẩn; Chỉ riêng tại Mỹ ước tính có một triệu ca mắc bệnh này, ca nhập viện và gần 400 ca tử vong một năm, theo CDC. Loài vi khuẩn Salmonella có phân loại phức tạp, có sáu chi được phân thành kiểu huyết thanh, vài trong số này là nguyên nhân chính của bệnh ở người. Bệnh do nhiễm khuẩn Salmonella bị mắc chủ yếu do nước, thức ăn bị nhiễm bẩn, nhất là gia cầm sống, thịt bò thái nhỏ và trứng sống. Vệ sinh kém rau quả thu hoạch, và thú cưng, nhất là bò sát, gà con và vịt con cũng là nguồn lây bệnh. Tránh tiếp xúc, vệ sinh chung và vệ sinh bàn tay là cách đề phòng quan trọng nhất. Các triệu chứng gồm tiêu chảy, sốt, ói, đau bụng. Hầu hết mọi người bình phục trong vài ngày mà không cần chữa trị ngoài việc bổ sung nước bị mất cho cơ thể. Tuy nhiên, khi một người bị mắc bệnh, bệnh dễ truyền sang người khác do vệ sinh bàn tay kém và vệ sinh chung kém. Bệnh thương hàn Khi huyết thanh của vi khuẩn Salmonella chi Salmonella enterica, huyết thanh enterica Typhi gây bệnh nghiêm trọng hơn và lây lan từ ruột đến máu và hệ hạch bạch huyết và sau đó các vùng khác trong cơ thể. Bệnh lây lan ở các nước đang phát triển, nó ảnh hưởng khoảng 27 triệu người mỗi năm, nhất là ở Ấn độ và trẻ em. Bệnh chỉ xuất hiện ở ngời và lây lan qua nhiễm bẩn phân, do đó vệ sinh kém đóng vai trò chính trong việc duy trì lây nhiễm bệnh. Bệnh có thể trị bằng thuốc kháng sinh và có vắc xin. Bệnh lỵ Sinh vật truyền bệnh ruồi nhà, ruồi xanh, gián. Sinh vật vi khuẩn, loài Shigella Bệnh lỵ là một trong những bệnh tiêu chảy quan trọng và kiết lỵ gây ra cho sinh vật trên toàn cầu, khoảng 90 triệu ca nhiễm bệnh mỗi năm. Bệnh lây qua đường tiêu hóa thức ăn và nước bị nhiễm phân của người bị bệnh. Vi khuẩn chỉ xuất hiện ở người và động vật linh trưởng, tùy vào điều kiện vệ sinh kém sẽ kéo dài bệnh - chỉ 10-100 vi khuẩn buộc phải lây nhiễm. Phải một tuần mới biểu hiện các triệu chứng. Bệnh gây tiêu chảy máu, chất nhầy hay mủ, sốt, buồn nôn, ói, đau bụng, và đầy bụng có thể kéo dài nhiều ngày hay nhiều tuần. Các trường hợp nặng có thể điều trị bằng thuốc kháng sinh. Viêm não do ve gây ra Côn trùng ve Sinh vật vi rút Flavivirus Có ba loại bệnh được phát hiện Châu Âu/Phương tây, Viễn Đông và Siberia. Bệnh xuất hiện theo vành đai trải dài lục đia Á Âu, từ Ý ở phía Nam Âu đến Phần Lan ở phía bắc, suốt đến miền Nam nước Nga và các nước giáp biên giới đến bắc Trung Quốc và Triều Tiên ở Viễn Đông. Khoảng ca được báo cáo hàng năm ở châu Âu và Nga. Bệnh Tularaemia Côn trùng ruồi hươu, ruồi trâu, muỗi. Sinh vật vi khuẩn Francisella tularensis Francisella tularensis có mặt theo một dải đất rộng trên toàn bắc bán cầu. Ở những vùng bệnh lây nhiễm, các ca bị nhiễm theo mùa và có liên quan đến khí hậu, có thể ảnh hưởng đến điều kiện sinh sản của sinh vật truyền bệnh, mặc dù ít có nghiên cứu, theo WHO. Nhiều loài vật hoang dã mang bệnh và mèo nhà bị nghi nhiễm bệnh. Vi khuẩn này lây nhiễm rất mạnh, chỉ cần vài sinh vật để chúng lây nhiễm, mặc dù chưa biết có lây từ người sang người hay không. Vi khuẩn này chỉ sống trong các tế bào của vật chủ vì chúng phụ thuộc vào một quá trình nào đó của tế bào để tồn tại. Có vài giống khác nhau về tính chất nguy hiểm và khu vực địa lý. Bệnh Tularaemia dễ lây qua da, màng nhầy, khi tiếp xúc trực tiếp với đồng vật bị nhiễm bệnh hay vật liệu của động vật, hấp thụ thức ăn hay nước dơ bẩn, và hít bụi và thuốc xịt dơ bẩn. Mỗi dạng bệnh có các triệu chứng riêng, thường là viêm và sưng tại nơi bị nhiễm bệnh, như sưng mắt, da bị cắn, phổi và sưng tuyến bạch huyết gần đó. Bệnh có thể lây sang nhiều cơ quan, như phổi, gan, lá lách và hệ bạch huyết, tùy vào con đường lây nhiễm. Bệnh có thể trị bằng thuốc kháng sinh. Nguồn tham khảo Wikipedia Trung tâm Kiểm soát Bệnh Hoa Kỳ WHO. Tầm quan trọng đối với sức khỏe cộng đồng của Các loại côn trùng dịch hại đô thị. WHO, Copenhagen, 2008. Trung tâm Ngăn ngừa và Kiểm soát Bệnh châu Âu WHO. Báo cáo toàn cầu về các bệnh do sinh vật truyền bệnh gây ra. WHO, Geneva, 2004. Các trường hợp bệnh bị lãng quên giảm xuống mức thấp nhất trong 75 năm WHO. Đầu tư khắc phục ảnh hưởng trên toàn cầu của các bệnh nhiệt đới không được chú trọng báo cáo lần ba của WHO về các bệnh không được chú trọng lược toàn cầu ngăn ngừa và kiểm soát sốt xuất huyết 2012-2020. 2012 Cơ quan An toàn Thực phẩm Châu Âu Graczyk TK, Knight R và Tamang L. Lây truyền bệnh cơ học của Ký sinh trùng đơn bào trên người của Côn trùng. Clin Microbiol Phiên bản tháng 1/2005; 181128-132. dol Nếu bạn thả một con nhện độc và một con rắn độc vào chung một chiếc hộp, trong trường hợp chúng phải đấu tranh sinh tồn với nhau, loài nào sẽ thắng? Một nghiên cứu mới của các nhà khoa học đến từ Đại học Base, Hoa Kỳ bây giờ đã có câu trả đó, họ đã tìm thấy ít nhất 319 vụ nhện độc cắn chết và ăn thịt rắn. 297 vụ việc được ghi nhận trong tự nhiên và 22 sự kiện được dàn dựng trong môi trường nuôi nhốt. Khoảng một phần ba các vụ việc đã được ghi lại và báo cáo trên tạp chí khoa học chuyên ngành. Các sự kiện còn lại được tìm thấy trên báo chí và mạng xã này cho thấy nhện có thể săn được những con rắn to gấp nhiều lần kích thước cơ thể của chúng. Và tưởng chừng những con rắn độc đã đứng trên cùng chuỗi thức ăn, hoá ra chúng vẫn ở dưới những con nhện một con nhện bá đạoMartin Nyffeller là một nhà sinh vật học bảo tồn tại Đại học Base, người đã từng có rất nhiều nghiên cứu về nhện. Trước đây, anh từng báo cáo nhiều ghi sự kiện nhện săn mồi có thể ăn cả dơi và các động vật có xương sống khác."Càng dành thời gian nghiên cứu chủ đề này, tôi càng nhận ra một số loài nhện đã đạt được những thành tích đáng kinh ngạc", Nyffeller nói. Và lần này, đến lượt những con rắn độc phải trở thành con mồi cho một nghiên cứu đăng trên Tạp chí Arachnology, Nyffeller và đồng nghiệp của anh J. Whitfield Gibbons đến từ Đại học Georgia đã thống kê được tổng cộng 30 loài nhện trong tự nhiên và 11 loài khác trong môi trường nuôi nhốt có khả năng săn góa phụ là loài nhện thường xuyên bắt rắn nhất, chúng phải chịu trách nhiệm cho khoảng một nửa số rắn chết vì mắc phải lưới tơ. Các loài nhện goá phụ độc nhất thường có dấu đồng hồ cát trên cơ thể như Latrodectus mactans, L. Hesperus và L. variolus. Chúng thường hay bắt được rắn cùng với một loài họ hàng gần là nhện nút Châu Phi L. kích thước cơ thể tối đa chỉ khoảng 1,1 cm những con nhện goá phụ thường chỉ nhắm tới những con rắn nhỏ, còn non. Nhưng trong những trường hợp cá biệt, nọc độc của chúng vẫn đủ để giết những con rắn lớn hơn tarantula lớn hơn, chịu trách nhiệm cho khoảng 10% số vụ giết rắn khác. Với đặc điểm cơ thể của chúng, nhện tarantula thích các chuyến săn mồi chủ động trên mặt đất hoặc trên cây mà không cần dựa vào mạng các vụ săn rắn khác được thực hiện bởi nhện thợ dệt quả cầu lớn Large orb-weaver. Loài nhện này cũng được biết đến là một tay săn dơi và chim siêu như cái tên của chúng, những con nhện thợ này có thể dệt những mạng tơ hình cầu cực lớn và rất chắc chắn. Một khi bắt được rắn, chúng sẽ hút cạn nội tạng bên trong con mồi giống như những gì chúng làm với côn trùng. Chỉ là lần này bữa ăn lớn hơn rất nhiều, và cũng cung cấp cho chúng nhiều chất dinh nghiên cứu của Nyffeller và Gibbons nhện ăn rắn là một loại sự kiện không hiếm thấy. Nó có thể được bắt gặp trên mọi châu lục, chỉ trừ Nam Cực. Những con nhện ở Mỹ và Úc tích cực săn rắn nhất. Khoảng 1/2 và 1/3 số sự kiện nhện ăn rắn đã được tìm thấy ở nạn nhân đáng thươngNói về những con rắn, nghiên cứu của Nyffeller và Gibbons đã thống kê được 86 loài rắn đã trở thành nạn nhân của những con nhện. Trong đó loài Colubrid dường như là món khoái khẩu của là họ rắn bao gồm các loài phổ biến như rắn lục Thamnophis cyrtopsis và rắn chuột Pantherophis guttatus. Sự phổ biến của chúng trong các sự kiện bị nhện ăn thịt phản ánh thực tế Colubrid là họ rắn phong phú nhất trên tất cả các lục địa ngoại trừ Úc, Nyffeler và Gibbons hết những con rắn bị nhện tấn công là con non có trọng lượng dưới 1 gam. Nhưng đôi khi, nhện cũng hạ gục được những đối thủ lớn Nạn nhân lớn nhất được ghi nhận là một con rắn dài tới 1 con rắn lớn thường bị giết bởi những con nhện thợ dệt quả cầu hoặc những con rắn tarantula lớn. Nhện góa phụ đen có thể ăn thịt những con rắn có kích thước gấp 30 lần trọng lượng của chính chúng. Và trong một báo cáo, một con nhện Steatoda triangulosa đã bẫy được hẳn một con rắn lục dài 15 cm, lớn gấp 355 lần trọng lượng cơ thể của chúng."Con mồi lớn đến vậy quả là một chiến lợi phẩm đáng ngạc nhiên với nhện. Đó là điều gần như không thể tin được", Nyffeler nói với Live con rắn sau khi dính nọc của nhện sẽ chết trong vòng vài tiếng cho đến vài ngày, tùy theo kích thước của chúng và độ độc của nọc nhện. Trung bình, 86% những con rắn sẽ chết sau vết cắn của nhện độc. Khi bị mắc vào mạng nhện, rắn chỉ có 1,5% cơ hội tự trốn thoát, 11% những con rắn sống sót còn lại là do được con người một con nhện đánh bại một con rắn, nó có thể ăn dần chiến lợi phẩm của mình trong nhiều ngày. Phần lớn nhện săn côn trùng coi rắn là một bữa thịnh soạn, bởi không phải lúc nào chúng cũng có chủ ý bắt với một số loài nhện, đặc biệt là tarantula, rắn lại là một món khoái khẩu và là chiến lợi phẩm phần thường xuyên trong chế độ ăn của chúng. Nhện lưng đỏ Úc Latrodectus hasselti cũng là một loài thường ăn cả thằn lằn và rắn với số lượng khảo Livescience Dứa ăn thịt – Bromeliads Loài cây này thuộc loài dứa. Các chiếc lá sẽ ôm xung quanh tạo thành một vùng trũng, ở giữa chứa chất lỏng thu hút côn trùng. Con mồi của loài cây này thường là các động vật nhỏ như côn trùng. Cây rắn hổ mang Loài cây này chủ yếu sống ở phía bắc California và phía nam Oregon, Mỹ. Môi trường sống là các vùng đầm lầy, nơi ẩm ướt, có thể đạt kích thước lên tới 2 mét. Lá của loài cây này có hình dáng một con rắn hổ mang đang thè lưỡi. “Chiếc lưỡi” này sẽ làm nhiệm vụ thu hút con mồi. Khi con mồi sập bẫy, nó sẽ bị hút lên vùng đỉnh cây và tại đây, chúng sẽ bị một loại nước nhấn chìm cho đến chết, bị phân hủy bởi các vi sinh vật và cây sẽ hút loại nước trên để nuôi dưỡng cơ thể. Cây Roridula Loài cây này dạng thân dài, trên đó có các gai tiết ra chất nhầy nhằm mục đích dính sâu bọ nếu chúng bay vào. Khi con mồi dính bẫy, các chất tiêu hóa ngay lập tức “bủa vây” và khiến con mồi thối rữa dần, cây sẽ hấp thụ dinh dưỡng từ đó. Cây nắp ấm Loài cây này có rất nhiều phân loài khác nhau và cũng có các hình dạng khác nhau. Tuy nhiên, chúng đều có điểm chung là phần lá của chúng đều có tạo hình chiếc ấm khá độc đáo. Bên trong “chiếc ấm” này chứa các chất nhầy là các enzim tiêu hóa và các lông xung quanh để bắt con mồi. Khi con mồi bay vào, một phần lá hình chiếc nắp ngay lập tức khép lại tóm gọn con mồi và chúng dần bị men tiêu hóa phân hủy dần. Theo thống kê, có loại cây nắp ấm chỉ bắt ruồi, muỗi hoặc côn trùng nhưng cũng có loại cây bắt cả chuột, dơi… và các động vật lớn khác. Cây gọng vó Cây này có tên khoa học là Drosera burmannii Vahl và có hơn 170 phân loài khác nhau, qua đó trở thành cây ăn thịt khá phổ biến trên thế giới. Môi trường sống của cây gọng vó thường là các bãi bùn lầy, chúng đặc trưng với các lông gai màu sắc sặc sỡ, đầu lông gai có tiết ra một chất nhầy và đây chính là chiếc bẫy để “dụ” côn trùng vào đó. Khi côn trùng bay vào, các chất nhầy sẽ giữ côn trùng lại. Càng vùng vẫy, chúng sẽ càng bị dính chặt và một hồi sau thì kiệt sức. Sau đó, cây sẽ tiết ra chất tiêu hóa và con mồi sẽ bị “ăn” trong khoảng 2 ngày, những bộ phận con mồi không thể tiêu hóa sẽ bị gió thổi bay. Cây hố bẫy Có tên khoa học là Sarracenia, loài cây này sống chủ yếu trong các đầm lầy Bắc Mỹ. Cây hố bẫy có hình dáng khá giống cây nắp ấm nhưng có bao đài dài hơn, phiến lá có nắp sặc sỡ, bên trong chiếc bao đài đó có nhiều tuyến tiết mật thu hút sâu bọ. Cách cây hố bẫy săn mồi khá giống cây nắp ấm. Cây cỏ bơ butterwort Loài cây này sống ở những khu vực ẩm ướt ở châu Mỹ, châu Âu và Bắc Á. Đặc trưng của cây cỏ bơ là những chiếc lá có các lỗ chứa chất dính hình giọt nước với mục đích thu hút côn trùng. Khi côn trùng tưởng đó là nước và bay vào uống, nó sẽ bị dính vào chất nhầy này. Cây có bơ sẽ tiếp tục tiết thêm nhiều chất nhầy khác để bao vây côn trùng đó. Con mồi sẽ bị dính chặt và bọc trong đống chất nhầy này, cuối cùng bị tiêu hóa. Cây ăn thịt gai Điểm hấp dẫn của loài cây này là những giọt nước đẹp mắt ở đầu tua của nó. Đây chính là chiếc bẫy mà khi con mồi rơi vào “vùng nguy hiểm”, nó sẽ bị tóm gọn trong chưa đầy 1 giây. Cây Bladderwort Loài cây này hiện có hơn 200 phân loài khác nhau, môi trường chủ yếu là dưới nước hoặc các vùng đất ngập nước. Chúng có các bong bóng nhỏ trên lá và đây là bẫy của chúng. Khi giăng bẫy, nhiều tuyến tua trên cây sẽ tạo thành một chiếc “túi”, bên trong liên tục bơm nước ra ngoài nhằm tạo áp lực. Khi con mồi đi ngang, các tua đó sẽ phát hiện và tạo áp lực hút con mồi vào bên trong. Các chất tiêu hóa ngay lập tức tiết ra, giết chết và tiêu hóa con mồi. Theo thống kê, cây Bladderwort có thể bắt 1000 con mồi/ngày. Cây bắt ruồi Venus flytrap Có tên khoa học là Dionaea muscipula, đây là loài cây ăn thịt côn trùng mọc phổ biến ở những vùng lầy lội thuộc Bắc và Nam Carolina, Mỹ. Loài cây này có màu đỏ sặc sỡ, gồm hai mảnh và trên mép lá có chứa các gai nhọn. Khi côn trùng, chủ yếu thuộc lớp nhện “lạc” vào, hai nắp ngay lập tức khép lại khiến con mồi không thể thoát ra. Tiếp đó, các chất tiêu hóa sẽ ngay lập tức tiết ra giết chết con mồi và phân hủy nó, tạo thành chất dinh dưỡng cho cây. Khi tiêu hóa hết, chiếc lá này sẽ mở ra để “đón chào” con mồi mới. Cây ăn thịt lai Mới đây, chuyên gia thực vật người Mỹ Matthew Kaelin đã thành công trong việc tạo ra một loài cây ăn thịt mới trên cơ sở lai tạo hai giống cây nắp ấm khác nhau. Theo mô tả, giống cây ăn thịt mới này cao khoảng 6 inches 15,24cm, thân có những vằn vàng, đỏ điểm đốm đen. Với hình dạng bên ngoài khá giống các sinh vật ngoài hành tinh, loài cây ăn thịt mới này đã được đặt theo tên của Hans Ruedi Giger – họa sĩ siêu thực nổi tiếng với tạo hình người ngoài hành tinh trong bộ phim Alien. Với tạo hình này, Giger từng giành được giải Oscar danh giá. Phát hiện cây ăn thịt mới Trang mạng Japan Times đưa tin, một loài cây ăn thịt mới được phát hiện tại quận Aichi, nằm ở bờ biển phía nam của Nhật Bản. Loài cây này thuộc họ gọng vó. Nó có hoa màu tím đỏ. Lúc đầu, người ta cho rằng đây là một biến thể của cây Drosera indica hoa trắng - một loài cây ở Nhật đang có nguy cơ tuyệt chủng, mọc tự nhiên từ Ấn Độ tới Nhật. Tuy nhiên, giáo sư Mikio Watanabe, ngành phân loại thực vật thuộc đại học giáo dục Aichi, Nhật Bản, đồng thời cũng là người phát hiện ra cây này thì khẳng định đây là một loại cây hoàn toàn mới. Lời khẳng định được đưa ra sau khi ông tiến hành phân tích gene. Loài cây ăn thịt mới được phát hiện ở Nhật Bản. Ảnh PopSci 9 Tháng Bảy, 20221 Tháng Mười Một, 2022Cẩm Anh Như Ngọc Đây là nội dung riêng tư. Cần phải nhập mật khẩu để xem tiếp Mật khẩu Điều hướng bài viết Previous [ Rung động ] Chương 62 Xe chấn, bắn tinh dịch vào trong tiểu huyệt 2Next [ Rung động ] Chương 64 Vừa nghe điện thoại vừa bị trêu đùa liếm ngực 1

hai căn côn thịt cùng ra vào